Mỗi lần Tí đạp xe tới cổng trường, lại nghe các bạn cười nhạo:
– Xem kìa, ngài Đôn Ki-hô-tê cưỡi lừa đã tới!
Quả thật, chiếc xe đạp của Tí trông rất dị kì. Khung, vành gỉ sét. Cái chắn bùn sau cong lên như đuôi ngựa. Tay cầm vểnh cao, chẳng khác nào đôi tai lừa. Tí 14 tuổi, đang độ lớn, chân dài lêu đêu, cưỡi cái vật bằng sắt kêu cót két ấy, đôi vai nhô cao, cổ thụt đâu mất, trông thật khó nín cười.
Tí vừa dắt xe vào chỗ gửi, vừa nghĩ: “Hãy đợi đấy!”
Nguyên từ một năm nay, Tí đã âm thầm thực hiện kế hoạch mà cu cậu tự đặt tên là “chiến dịch SS10”. Ban ngày đi học, buổi tối Tí xin được một chân rửa bát ở nhà hàng lớn, làm việc vất vả nhưng thu nhập khá. Tiền lĩnh được, Tí dành dụm, định để mua một chiếc xe đạp đua bóng lộn, vành sáng lấp lánh, có cần sang số 10 tốc độ (gọi tắt là “SS10”).
Bây giờ tiền dành dụm đã đủ. Buổi chiều ấy, nhân được nghỉ học, Tí liền đi mua xe đạp.
Cậu run run bỏ xấp tiền vào túi áo, rồi lấy hai chiếc kim băng gài miệng túi lại cẩn thận, tự nhủ: “Có mọc cánh cũng không bay đi đâu được”.
Trời tháng tư nắng như đổ lửa, đất dưới chân nóng bỏng, thỉnh thoảng một cơn gió hừng hực cuốn bụi bay mịt mù.
Đang rảo bước, thình lình Tí nghe tiếng la thất thanh: “Cháy! Cháy!” Phía trước Tí, ngọn lửa bừng bừng bốc lên cao ngất. Dân hai bên hàng phố hốt hoảng chạy rầm rập, gọi nhau í ới. Người ôm ti vi, người khiêng tủ lạnh, người xách mùng mền, chạy lui chạy tới lăng xăng. Giữa cảnh hỗn loạn đó, Tí nghe có tiếng trẻ con khóc thét lên, tiếng khóc phát ra từ một căn nhà lửa đang cháy gần tới. Tí lao ngay đến đó. Căn nhà bằng gỗ, vững chắc, cửa đóng chặt bằng một ổ khoá to kềnh. Hẳn là người lớn đã đi đâu đó, nhốt đứa bé bên trong vì sợ nó chạy ra ngoài đường.
Tí xô cửa. Không ăn thua gì, cánh cửa chắc quá. Tí nhìn quanh, thấy một khúc gỗ lớn, dài hơn hai mét. Tí ôm khúc gỗ nặng, tông thẳng vào cánh cửa. Mạnh hơn, mạnh hơn nữa, cánh cửa vẫn trơ trơ. Tí lấy hết sức lao cả khúc gỗ vào cánh cửa lần nữa. Miếng ván bên dưới nứt ra một đường dài, Tí bèn đạp mạnh vào đó. Tấm ván bung ra. Không chậm trễ, Tí chui ngay vào trong nhà. Khói mịt mù làm cay xè cả mắt. Tí vừa quờ quạng vừa gọi:
– Bé ơi! Bé!
Không có tiếng trả lời. Phòng trước không có ai, phòng ngủ trống rỗng, nhà bếp chỉ thấy xoong, nồi. Đứa bé ở đâu ? Chợt Tí nghe dưới gầm giường có tiếng rên rỉ. Tí cúi xuống, quơ tay tìm, đụng vào mớ tóc mềm mại. Thì ra đứa bé sợ quá, chui xuống gầm giường trốn.
Tí ôm đứa bé lao ra ngoài nhưng lửa đã bén đến bịt mất lối. Tí bèn giật phăng nút áo, cởi áo ra dập lửa mở đường. Cái áo bắt lửa cháy phừng phừng. Không hiểu Tí tìm đâu ra sức mạnh mà chỉ đạp vài cái, tấm vách sau bỗng thủng một lỗ lớn. Cậu ôm đứa bé nhảy qua lỗ trống ra ngoài. May quá, phía sau nhà uốn lượn một con rạch nước chảy lửng lờ. Ghì chặt đứa bé trong người, Tí lao xuống dòng nước mát, bơi qua bờ bên kia…
Tí đi theo bờ kênh. Đứa bé vẫn ôm chặt lấy cổ Tí. Tí qua một cây cầu, đi vòng lại khu nhà vừa bị hoả hoạn. Giữa đám đông nhốn nháo, một người đàn bà đầu tóc rũ rượi đang vật vã khóc, tìm con.
Đứa bé nhìn thấy bà kêu lên mừng rỡ:“Má ! Má !” Người đàn bà chạy xô tới, ôm chặt con vào lòng, lắp bắp cảm ơn Tí.
Tí lẳng lặng ra về. Bây giờ cậu mới thấy vai đau rát. Tí nghĩ: “Nhằm nhò gì. Vài bữa là khỏi ngay thôi.” Bỗng Tí giật mình kêu lên: “Chết rồi! Cái áo !”
Cái áo Tí đã cởi ra để dập lửa mở lối thoát. Trong túi cái áo cháy đó, nằm gọn số tiền mua xe đạp. Tí chạy trở lại tìm nhưng vô ích. Làm gì còn áo ! Chỉ ngổn ngang những tro và than mà thôi!
Vậy là mất toi chiếc xe đạp hằng mơ ước. Mất toi một năm trời làm lụng vất vả. Tí tiếc ngẩn ngơ. Nhưng nhớ lại nét mặt hân hoan của người mẹ khi đón nhận đứa con, nhớ đến hai cánh tay bé bỏng của đứa bé ôm chặt lấy cổ Tí khi Tí lôi chú ta ra khỏi gầm giường ngôi nhà đang cháy, Tí bỗng cảm thấy một niềm vui dịu dàng dâng lên trong lòng. Tí nghĩ: “Đành làm Đôn Ki-hô-tê cưỡi lừa thêm một năm nửa vậy. Lại rửa chén thêm một năm nữa.”
Và “chiến dịch SS10” thế là vẫn tiếp tục.