Chuyện tổ tiên mở nước

Hùng Vương trị đất lạc, đặt tên nước là Văn Lang, chia ra thành nhiều khu vực cho các anh em mỗi người cai quản một nơi, còn một số thì ở với mẹ, anh cả được tôn làm vua, tức là Hùng Vương.

Buổi đầu, vật dùng của dân chúng chưa đủ, lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ làm chiếu, lấy nước nhựa làm rượu, lấy bột cây quang lang làm cơm, lấy cầm thú  ngư trung làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, cấy bằng lửa. Đất nhiều gạo nếp, lấy ống tre để nấu. Gác cây làm nhà để tránh hùm sói. Cắt tóc ngắn để tiện đi trong rừng rú. Con mới sinh thì lấy lá chuối lót. Khi có người chết thì lấy cối chài ra mà giã, hàng xóm nghe thì chạy đến cứu giúp nhau. Trai gái lấy nhau thì chưa dùng trầu cau, lấy phong muối làm lễ đầu, rồi sau đem trâu dê để thành lễ.

Tổ chức thô sơ dần dần thành lập nên kinh đô Phong Châu, các bộ lạc thì  ở dưới quyền tù trưởng gọi là lạc tướng, các lạc tướng thì phục tòng ít nhiều một  vị tù trưởng có thế lực hơn hết cả gọi là lạc hầu hay lạc vương. Thôn ở dưới  quyền một gia trưởng gọi là bố chính. Vương có nô lệ tôi tớ, con trai gọi là quan lang, con gái gọi là mị nương hay mệ nàng, cha chết thì truyền ngôi cho con  trưởng, người nào cũng xưng hiệu là Hùng Vương.

Trong xứ có nhiều ao, đầm, hồ, sông và tiếp giáp biển, dân chúng sinh hoạt về nghề chài lưới thường bị các giống thủy tộc như thuồng luồng, cá sấu  làm hại. Hùng Vương nghe những tai nạn dân sự hay gặp phải mới bảo rằng:

- Ta cùng các anh em vốn thuộc giống rồng. Rồng thường ưa đồng loại mà ghét dị loại, vậy nên dùng chàm vẽ hình rồng vào người, để khi lạn xuống các em nhận ra là đồng loại mà không làm hại nữa.

Do đó mà người Lạc Việt có tục xăm mình và tin rằng mình là con cháu giao long. Nước của Hùng Vương cũng vì thế mà gọi tên là Văn Lang.

Đất nước Văn Lang phía đông giáp biển Nam hải, phía tây đến nước Ba Thục, phía bắc đến hồ Động Đình, phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành).

Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái thì về phía đông nước Văn Lang hồi bấy giờ có một dân tộc thuộc về giống cá sống trên các hòn đảo. Tự thời xưa cá đã  biến thành người, dần dà ăn nói như người, lên ở trên cạn: Họ lên đất thì chóng mặt, đi đứng khó khăn, nhưng xuống nước thì khỏe mạnh bơi lội rất tài. Họ sinh sống bằng nghề bắt cá và đưa cá vào đất liền để  đổi lấy gạo ăn.

Phía nam Văn Lang, là nước Hồ Tôn tức Chiêm Thành về sau có một ông vua tên Thập Xa Vương có nhiều phép thuật, cai quản một bộ lạc mặt người đuôi vượn, rất khoẻ và hung dữ. Giáp giới phía nam nước này là nước Diệu Nghiêm có một ông vua có mười cái đầu nên gọi là Thập Đầu Vương. Ông vua  hình dạng cổ quái này có tài biến hóa phi thường.

Thập Đầu Vương nghe tiếng con trai của Thập Xa Vương là Trưng Tư có một người vợ rất đẹp tên là Bạch Tĩnh, bèn đem bộ hạ đến nước Hồ Tôn vây đánh bất ngờ, rồi hóa phép vào cung bắt nàng bạch Tĩnh đem về nước.

Bị cướp mất vợ, Trung Tư đem quân mặt người đuôi vượn kéo đi báo thù hóa phép dời núi lấp khoảng biển hẹp cách ngăn hai nước Hồ Tôn và Diệu  Nghiêm, mở đường tiến vào nội địa tình địch. Sau một trận giao chiến ác liệt, Trung Tư giết được Thập Đầu vương, giành lại được vợ đưa về.

Phía tây nam Văn Lang, có nước Tiết Hầu, nhân có việc rắc rối về ranh giới hai vua đôi bên mới phân định bằng cách mỗi bên cử một người từ nước mình, ở một chỗ nhất định rồi bắt đầu cùng một ngày, một giờ hướng về phía nhau mà đi, hễ gặp nhau ở đâu thì lấy đó làm giới hạn.

Bên Văn Lang cử một người đàn bà tên là Mụ Giạ, người cao lớn, có tài đi rất mau. Đôi bên đi gặp nhau ở một cái đèo, thuộc dãy núi ngày nay gọi là Trường Sơn. Dãy núi ấy được lấy làm ranh giới đôi bên theo lời giao kết. Cái đèo người ta vẫn gọi là đèo Mụ Giạ. Ở chỗ từ Tân Ấp (Hà Tĩnh) ngày nay sang  Ban Thông Kham (Ai Lao).

Sọ Dừa

Ngày xưa, có hai vợ chồng một lão nông nghèo đi ở cho nhà một phú ông. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi tuổi mà chưa có lấy một mụn con...

Bảy điều ước

Ngày xưa có hai vợ chồng bác nông sinh được hai người con trai. Người anh thì tham lam, lười biếng còn người em thì thật thà, tốt bụng, chăm chỉ chịu thương chịu khó...

Sự tích hòn Vọng Phu

Ngày xưa, có đôi vợ chồng nghèo sinh được hai mụn con: đứa lớn là trai mười một tuổi, đứa bé là gái lên sáu tuổi. Mỗi lần hai vợ chồng đi làm đồng hay đi đâu vắng, thường để hai con ở lại nhà, dặn anh trông nom em gái...

Ông tướng gầy

Thuở xưa có một người thợ rừng lực lưỡng khoẻ mạnh. Cái rìu cái búa thông thường anh cầm lỏng tay, phải thuê thợ rèn đánh to bằng hai bàn tay xoè, dùng mới vừa sức...

Cái cân thuỷ ngân

Ngày xưa, có một nhà làm nghề buôn bán, gian tham chế ra một cái cân cán rỗng, trong đổ thủy ngân, hai đầu bịt đồng, không ai biết. Khi cân hàng bán cho người ta thì dốc cán về đằng móc, còn khi cân hàng mua của ai thì dốc cán cân về đằng quả...

Thần giữ của

Ngày xưa ở vạn Lai-triều thuộc trấn Sơn-nam có một người lái buôn nước ngoài sang ta sinh cơ lập nghiệp. Sau mấy chục năm nhờ có mánh khóe tích trữ: buôn lúc đầu mùa, bán khi giáp hạt, lãi mẹ đẻ lãi con, hắn trở nên giàu có lớn...

Gái ngoan dạy chồng

Ngày xưa có một người nhà giàu, vợ chết sớm, chỉ có độc một người con trai, đứa con vốn người xấu nết, đần độn, lại là tay chơi bời lêu lổng không chịu học hành hay làm ăn gì cả. Thấy con không lo nối nghiệp nhà, người nhà giàu rất buồn phiền...

Bò béo bò gầy

Ngày ấy vào thời vua Lê chúa Trịnh có hai vợ chồng một người nho sinh họ Lê. Nhân ngày cuối năm dắt nhau về thăm quê quán trong thành...

Nợ duyên trong mộng

Ngày xưa ở động Sơn-la thuộc Hưng-hóa có một chàng trẻ tuổi tên là Chu sinh. Bố mẹ mất sớm, chàng được chú đưa về nuôi cho ăn học. Nhưng người chú yêu dấu cháu bao nhiêu thì người thím lại ghét bỏ bấy nhiêu...