Mỗi buổi trưa, bọn trẻ chúng tôi lại rủ nhau tụ tập dưới tán những cây bàng giữa làng. Thằng Bá, một thằng mập ú, khôn ngoan và lanh lợi nhất trong bọn, cầm đầu chúng tôi. Nó khinh khỉnh đưa mắt nhẩm đếm rồi phân chúng tôi thành hai nhóm. Xong đâu đấy, nó đưa hai ngón tay vào mồm huýt lên một hồi còi. Lập tức, chúng tôi xông vào quần nhau chí tử với quả bóng được bện bằng giẻ rách. Khi thấy chúng tôi đã mệt lử, Bá lại đưa hai ngón tay vào mồm huýt lên một hồi còi nữa: ấy là hiệu lệnh cho nghỉ. Chúng tôi, đứa nào đứa nấy ngồi bệt xuống gốc cây bàng thở hổn hển. Một lúc sau, Bá lại đưa hai ngón tay vào mồm huýt lên một hồi còi nữa. Đó là hiệu lệnh đến quán bà Bảy Nhiêu mua kẹo “bồi dưỡng”. Lập tức đứa nào đứa nấy thò tay vào túi lôi ra những tờ bạc nát nhàu rồi chạy ù đi…
Quán bà Bảy Nhiêu là một cái chòi tranh rách nát được dựng lên trước một ngôi nhà tranh vách đất cũng rách nát như vậy. Trong chòi có đặt một cái bàn gỗ đã cũ, hai cái ghế băng cũng già nua như vậy, một cái đã hỏng mất một chân. Trên chiếc bàn gỗ có xếp mấy lọ kẹo.
Bà Bẩy Nhiêu sống một mình. Người trong làng không rõ chồng con bà mất tự lúc nào, mà cũng có thể bà chưa hề có chồng con gì cả. Trước đây, mắt bà còn tinh nhưng độ hai năm nay bà bị loà. Người ta bảo nhà bà ở gần động cát quá, gió thổi cát vào mắt, lâu ngày đâm ra vậy.
Chúng tôi nhao nhao:
– Bán cho con hai viên kẹo bi, bà.
– Bán cho con một thanh kẹo lạc, một viên kẹo bi, bà.
Bà Bảy Nhiêu run run đưa bàn tay trái lên cầm tiền của chúng tôi, bỏ ngay vào cái cơi trầu đặt dưới bàn, tay phải quờ quờ vào cái lọ lấy kẹo cho từng đứa. Hầu như bà không bao giờ đếm tiền. Bà tin chúng tôi.
Trưa hôm đó, sau hiệu lệnh của thằng Bá, tôi cho tay vào túi. Những tờ bạc lẻ mà mẹ tôi cho đã biến đâu mất. Tôi ngần ngừ một lúc nhưng nỗi thèm ngọt khiến tôi lủi thủi theo sau các bạn mong được ăn ghẹ của đứa nào đây. Giữa đường, nghĩ xấu hổ, tôi quay lại.
– Sao cậu không đi mua kẹo? – Thằng Bá đi sau hỏi tôi.
– Tớ không có tiền.
Bá cười sằng sặc:
– Chớ hồi giờ tớ đâu có tiền mà vẫn mua được kẹo.
Tôi ngạc nhiên:
– Chớ lâu nay cậu mua bằng thứ gì ?
Bá không trả lời ngay. Nó kéo tôi sát lại gần, rút trong túi ra mấy tờ giấy đã viết, được cắt gọn ghẽ như những tờ giấy bạc, thì thầm:
– Tớ chuyên đưa bà Bảy những tờ giấy này. Bả mù, bả đâu có thấy. – Nó ngừng một lát rồi tiếp – Tớ có ba tờ, cho cậu một. Đợi tụi nó mua xong, cuối cùng mình mới mua.
Tôi ngần ngại một lúc rồi cuối cùng cũng cầm tờ giây lộn. Tôi có cảm giác khi cầm tờ bạc giả của tôi, mắt bà Bảy Nhiêu như có tia sáng loé lên. Nhưng bà không nói gì, vẫn bỏ nó vào cơi trầu và đưa viên kẹo cho tôi…
Hôm sau, chúng tôi định lặp lại sự việc y như hôm trước. Nhưng khi tôi và Bá đến quán thì không thấy có chuyện mua bán. Các bạn đến trước đều đứng túm lại giữa quán nhìn sững vào trong nhà bà Bảy. Trong nhà có tiếng người lao xao. Một bác nông dân quen biết trong làng đang ngồi trước cửa vừa giở cơi trầu của bà Bảy ra đếm, vừa nói vọng ra:
– Tụi bay về đi. Bà Bảy trúng gió chết hồi hôm rồi.
Chúng tôi sững sờ, đứng im không nhúc nhích. Bác nông dân lẩm bẩm điều gì rồi quay vô nhà nói với ai đó:
– Số tiền này đủ làm một mâm cúng bả đấy. – Im lặng một lúc rồi bác tiếp – Bả mù mà tình thật. Bọn nào đưa giấy lộn cho bả, bả cũng nhận rồi gói riêng ra…
Tôi và Bá đứng như chôn chân xuống đất. Sống lưng lạnh buốt…
Từ đó đến nay đã bốn mươi năm trôi qua. Bạn bè của tôi không còn đông đủ như trước. Mấy chục năm chiến tranh đã xáo trộn chúng tôi mỗi người một ngả. Thằng Bá ngày xưa giờ trở thành một nông dân, người gầy, rắn rỏi, ngày ngày đánh trâu cày kiếm khoai lúa nuôi bầy con cháu đông đúc. Riêng tôi may mắn được học hành để trở thành một nhà văn. Cứ mỗi lần về quê, tôi đều rủ Bá ra thăm mộ bà Bảy Nhiêu, cả hai đứa đều đứng lặng, miệng lầm rầm cầu mong bà tha thứ…