Kéo cày giả nợ

Xưa, có một người tên gọi là Chu văn Địch làm ăn vất vả, cửa nhà đói kém, nhưng tính khí hiền lành, ăn ở thật thà, có nhân có đức.

Trong hạt, có một nhà giàu thường cho người ấy vay nợ, năm nào cũng vậy, vay vay giả giả đã nhiều.

Phải một năm mất mùa, người ấy không giả được nợ, mà ông nhà giàu cũng không hỏi đến.  Mấy năm sau nguời ấy chết đi, nợ vẫn còn lại.  Nên lúc hấp hối còn giối lại với con rằng:

            Nợ nần chưa giả được ai,

            Hồn này thác xuống tuyền đài chưa yên.

Một đêm, ông nhà giàu kia nằm mơ, nghe có tiếng người đến nói bên tai rằng:

            Tái sinh chưa dứt hương thề,

            Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.

Sáng ngày dậy, thấy con trâu đẻ ra được con nghé trên lưng có hai chữ “Văn Địch”.

Con nghé mỗi ngày một nhớn, khôn ngoan, dễ bảo, cầy bừa rất khỏe.  Người ngoài biết chuyện, ai cũng bảo rằng:

            Người ăn thì còn,

            Con ăn thì hết,

            Đã đến lúc chết,

            Hãy còn nhớ ơn.

Cách đấy ít năm, hai đứa con Văn Địch khôn nhớn lên, làm ăn nhờ giời cũng khá.

Một hôm đang cày ngoài đồng, nghe thấy thửa ruộng gần đấy có người bảo con trâu rằng:

-Văn Địch! Văn Địch! Nhanh chân, mau bước, kẻo đã trưa rồi.

Hai đứa con nghe thấy tên bố, ngạc nhiên chạy sang bên ruộng hỏi, thì người kia nói rằng:

-Con trâu này từ lúc sinh ra, trên lưng có hai chữ Văn Địch, mà có gọi đúng tên nó như thế, thì nó mới chịu làm.

Lúc về, hai đứa con vội sang nhà ông nhà giàu hỏi truyện, tỏ ý muốn mua con trâu, thì ông ấy bảo rằng:

-Trước, tên Chu văn Địch có vay nợ ta, không giả được ta, ta cũng không đòi.  Có nhẽ bởi vậy, mà phải hoá kiếp làm con trâu này để giả nghĩa cho ta.  Đã mấy năm nay nó làm ăn chịu khó, trong nhà ta đây cũng được thịnh vượng.  Nợ giả như thế, ta cho cũng là rồi.  Vậy nếu hai anh có phải là con, muốn mua chuộc về, thì ta để lại cho.  Ta lại giả văn khế cũ đem về mà hóa kiếp cho yên hồn cha.

Khi hai đứa con chuộc được con trâu về, vừa đem bức văn khế ra hóa, thì trâu lăn ra chết.  Thế là nó đã giả sạch được nợ kiếp trước rồi.

Sau hai đứa con làm ăn mỗi ngày một nảy nở và trở nên giàu sang, ai cũng có bụng yêu bụng quí.

Thấy truyện này, người ta mới đặt câu “Kéo cày giả nợ” thành câu tục ngữ.

Người ta lại còn phụ thêm một câu hát rằng:

Ở cho có nghĩa, có nhân,

Cây đức lắm chồi, người đức lắm con,

Ba vuông sánh với bảy tròn,

Đời cha nhân đức, đời con sang giàu.

Chử Đồng Tử và Tiên Dung

Thời Hùng Vương thứ ba có một người con gái nhan sắc như tiên, đặt tên là Tiên Dung. Tiên Dung rất đẹp, song tự nguyện không lấy chồng, chỉ ham thích phong cảnh, thường đi du lịch khắp nơi trong nước...

Cường Bạo đại vương

Ngày xửa ngày xưa, có một chàng trẻ tuổi làm nghề mò tôm bắt cá tại vùng sông Bồi. Tuy quanh năm chỉ che thân một mảnh khố rách, chui rúc trong một túp lều ven sông, nhưng anh vẫn vui vẻ làm ăn, miệng luôn ca hát...

Sơn Tinh - Thủy Tinh

Vào đời Vua Hùng thứ 18, Vua có một người con gái đã đến tuổi cập kê, công chúa có dung nhan xinh đẹp tuyệt trần, lại còn có một làn da trắng trẻo mịn màng, dáng người nàng cũng cao ráo. Tên của nàng công chúa này là Mỵ Nương...

Rạch đùi giấu ngọc

Ngày xưa, một ông vua nước ngoài có một viên ngọc vô cùng quý giá. Viên ngọc có hai điều lạ, một là cầm trên tay tưởng chừng rất nhẹ, thế nhưng đặt vào đâu thì ở đấy nặng trĩu...

Rắn báo oán

Ngày ấy, trong một gò đất cây cối mọc um tùm ở làng Nhị Khê gọi là gò Rùa, có một con rắn mẹ sống với một đàn con...

Miếng trầu kỳ diệu

Ngày xưa, có một anh học trò tầm thường tên là Hồ Sinh. Gia tư của hắn cũng không lấy gì làm thiếu thốn, nhưng ngày đêm, hắn chỉ những mong muốn một chút danh phận...

Truyện cổ tích Tấm Cám

Ngày xửa ngày xưa, có hai chị em cùng cha khác mẹ, chị tên là Tấm, em tên là Cám. Mẹ Tấm mất sớm, sau đó mấy năm cha Tấm cũng qua đời, Tấm ở với dì ghẻ là mẹ Cám...

Phạm Viên thành tiên

Ngày xưa, vào đời nhà Lê, ở huyện Đông Thành, có nhà họ Phạm sinh được hai con trai là Phạm Chất và Phạm Viên.

Sự tích Thánh làng Chèm

Ngày xưa, ở làng Chèm có một người họ Lý khỏe mạnh lạ thường. Đặc biệt thân thể của anh ta quá khổ, đo được hai trượng sáu thước bề cao. Vì thế đi đâu ai cũng kinh sợ người ta gọi là Ông Trọng...