Mùa hè năm 1991, lưu vực sông Hoài và Thái Hồ bị thiên tai lũ lụt nghiêm trọng kể từ ngày dùng nước đến nay, trực tiếp gây tổn thất hơn 60 tỉ đồng. Hè năm 1998, lưu vực Trường Giang và sông Tùng Hoa ở Đông Bắc, lưu vực Nộn Giang đã phát sinh nạn lụt trên một diện tích lớn, nước ngập 196.000 mẫu, gây tổn thất kinh tế 250 tỉ đồng. Lũ lụt là hiện tượng tự nhiên bình thường, xưa nay vẫn xảy ra. Trên Trái Đất, sự tuần hoàn vật chất lớn nhất là tuần hoàn của nước. Đất đai ẩm ướt, mực nước ao hồ cao hay thấp, lưu lượng các dòng sông nhiều hay ít đều liên quan chặt chẽ với lượng nước bốc hơi và lượng mưa. Do đó nhiều dòng sông trên thế giới thường luôn gây ra lũ lụt. Nền văn minh của nhân loại sẽ tùy theo lượng nước dồi dào mà hưng thịnh lên hoặc lượng nước thiếu ít mà suy yếu. Nhưng thập kỉ 90 của thế kỉ XX, trên thế giới lũ lụt liên miên, đặc biệt ở Trung Quốc năm 1998 đã xảy ra trận lũ lớn hiếm có trong lịch sử. Điều đó vượt quá qui luật tự nhiên. Sự phát sinh trận lụt này có liên quan với sự phá hoại môi trường của con người.
Lũ lụt ngoài quy luật của bản thân nó, còn do ảnh hưởng của con người gây nên: dân số càng nhiều, lũ lụt càng nhiều, dẫn tới nguy hại càng lớn. Dân số tăng nhanh luôn dẫn đến rừng bị phá hoại, từng mảng rừng lớn biến thành nương rẫy và bãi chăn nuôi, sức chứa nước ở vùng thượng du của các con sông giảm thấp, nước đổ xuống phía dưới nhanh, chảy ra đồng bằng. Ví dụ năm 1998 lũ lụt ở trung và hạ du Trường Giang, mức nước vượt quá mức nước trong lịch sử nhưng lưu lượng lại nhỏ hơn trận lũ năm 1954. Các chuyên gia cho rằng nguyên nhân sông Trường Giang gây ra lũ lụt chính là vì ở Nghi Xương thuộc thượng lưu Trường Giang có nhiều cánh rừng bị chặt phá nghiêm trọng làm cho đất bị xói mòn, bùn cát tích tụ dưới lòng sông. Theo thống kê năm 1957, tỉ lệ che phủ rừng của lưu vực sông Trường Giang là 22%, diện tích đất bị xói mòn là 363 ngàn km2, đến năm 1986 tỉ lệ rừng che phủ chỉ còn 10%, diện tích đất xói mòn đạt đến 739 ngàn km2. Ở thập kỉ 50 của thế kỉ XX, Trường Giang có trên 1.000 hồ chứa nước, đến đầu những năm 90 giảm nhanh xuống chỉ còn 182 hồ. Những công trình thủy lợi xây dựng không hợp lí khiến cho chức năng các hồ chứa nước với tư cách là một hệ thống sinh thái tự nhiên đã bị giảm yếu rõ rệt. Một nguyên nhân quan trọng khác gây ra gần đây lũ lụt liên miên là khí hậu biến đổi thất thường, dẫn đến mùa hạ ở Trung Quốc nhiệt độ cao, mưa nhiều, lượng mưa tập trung. Bước vào thập kỉ 90 của thế kỉ XX đến nay, toàn Trung Quốc rơi vào thời kì mưa rất nhiều. Ví dụ từ trung tuần tháng 6/1998 đến nay, lượng mưa ở lưu vực sông Trường Giang so với năm bình thường nhiều gấp hơn 5 lần, thậm chí lượng mưa ở một số lưu vực các sông lớn gấp 2 lần so với bình thường. Các chuyên gia cho rằng, hiện tượng Enninô là nhân tố tạo nên mùa hè nhiệt độ cao, mưa nhiều. Nói chung năm thứ hai sau khi Enninô phát sinh, ở Trung Quốc mùa hè ở những vùng mưa lớn là các vùng phía Nam và phía Bắc, dọc theo sông Trường Giang và dải phía nam sông Trường Giang, một dải khác ở vùng phía Bắc. Hiện tượng Enninô phát sinh có liên quan mật thiết với sự phá hoại môi trường của con người.
Trên thế giới, lũ lụt là thiên tai thường phát sinh dồn dập. Hầu như mỗi năm đều có hàng trăm đến hàng nghìn người chết vì lũ lụt. Chính vì xảy ra liên tiếp cho nên người ta ít chú ý đến như tai nạn động đất và tai nạn hàng không. Các nhà khoa học đã đưa ra những đối sách để đề phòng và xử lí lũ lụt là cố gắng dự báo thời gian xảy ra lũ lụt chính xác và sớm hơn; dự đoán sát mức độ nguy hiểm của nó để đưa ra những kế hoạch ứng phó kịp thời; tìm những biện pháp có hiệu quả để khống chế lũ lụt, giảm thấp thiệt hại; nghiêm ngặt khống chế sự khai thác đất đai, giảm thấp những khai thác không hợp lí, biện pháp căn bản nhất là bảo vệ rừng, trả diện tích canh tác cho rừng và trả ruộng cho hồ.
Từ khoá: Lũ lụt; Lưu lượng dòng lũ; Trồng cây gây rừng; Tỉ lệ che phủ rừng; Đất xói mòn.