Giấc mơ của cậu bé Phun-tơn

Elô-be Phun-tơn sinh ngày 14-11-1765, tại Mĩ. Cha mất sớm, nhà nghèo, lên 9 tuổi, Phun-tơn mới được đến trường. Vì giàu trí tưởng tượng, biết kể chuyện lại biết vẽ, cậu bé được bè bạn rất quý mến.

Ở thị tran nơi Phun-tơn sinh sống có một xưởng chế tạo đồ dùng gia đình. Tiếng gõ búa ở xưởng luôn hấp dẫn cậu đến đó. Có lần, dưới sự chỉ bảo của một bác thợ cả, cậu đã tự đóng được một con thuyền gỗ xinh xắn.

Một hôm, Phun-tơn cùng mấy bạn chơi bên bờ sông. Cậu nằm trên bãi cỏ rồi thiếp đi. Khi bị các bạn đánh thức dậy, cậu tiếc rẻ nói:

– Mình đang mơ một giấc mơ thú vị thì các cậu làm mình tỉnh giấc. Tiếc quá!

– Cậu mơ gì vậy?

– Mình mơ thấy một con tàu lớn. Trên tàu có ống khói to tướng đang bốc lên từng đụn khói đen. Hai bên mạn tàu có hai bánh xe nước quay quay. Không có buồm mà con tàu vẫn lướt sóng băng băng.

– Không có buồm mà tàu chạy được sao? — Các bạn kêu lên.

– Mình thấy rõ trong mơ như thế mà.

Từ hôm đó, Phun-tơn bỏ tất cả các cuộc chơi. Cậu thường trèo lên con thuyền nhỏ, nghĩ cách đặt sau thuyền một cái trục xoay tròn, trên có gắn những mái chèo gỗ. Một hôm, cậu vui mừng bảo các bạn:

– Các cậu có muôn mình chở đi câu cá bằng con tàu của mình không?

– Con tàu? – Bọn trẻ ngạc nhiên, song đều theo Phun-tơn ra bờ sông.

Quả thật, chiếc thuyền nhỏ có lắp ở đuôi một chiếc trục quay có gắn các cánh đây nước. Không cần chèo, chỉ cần dùng tay quay một trục gỗ đê truyền chuyên động sang trục quay đó là con tàu từ từ lướt sóng ra xa bở.

– Tuyệt quá! – Lũ trẻ hét toáng lên.

Năm 17 tuổi, Phun-tơn một mình đến Phi-la-đen-phi lập thân. Anh vẽ các bản vẽ cơ khí ở một công xưởng. Buổi tối, anh học một hoạ sĩ nên ít lâu sau đã có thê kiếm thêm tiền bằng nghề vẽ chân dung. Phần lớn số tiền kiếm được anh dùng đê học thêm kiến thức ở các trường đại học. Sau ba năm, anh đã học xong các tiếng Pháp, Đức, I-ta-li-a, có kiến thức toán học, hoá học, vật lí… Sau đó, anh xin thôi việc, sang nước Anh đê học hội hoạ. Nhưng khi sang Anh, Phun-tơn gặp nhà phát minh động cơ hơi nước danh tiếng Giêm Oát. Xúc động trước cống hiến lớn lao của Oát, Phun-tơn quyết định trở lại với giấc mơ thuở nhỏ : đóng một con tàu lớn, cống hiến một phát minh cho loài người.

Để có những kiến thức sâu rộng vế chuyên ngành cơ khí, Phun-tơn đã xin làm việc trên công trường nạo vét sông ở Bớc-minh-ham. Tại đây, anh đã góp những ý kiến có giá trị. Vào ngày khánh thành công trình nạo vét, anh đã nhìn thấy con tàu đầu tiên do Sai-minh-tơn chế tạo chạy bằng động cơ hơi nước, hai bên thân có bánh guồng rất lớn, làn khói đen từ ống khói con tàu bốc lên. Các chủ kinh doanh nhìn con tàu như một quái vật, sợ sóng tàu làm vỡ đê sông, không cho tàu đi lại trên sông. Con tàu nằm chết ở một bãi sông, dầm mưa, dãi nắng. Phát minh bị bỏ phí của Sai-minh-tơn càng thôi bùng ước vọng của Phun-tơn.

Lúc đó trên thế giới chưa có tầu ngầm. Phun-tơn quyết định chế tạo thử tàu ngầm, hi vọng một con tàu chạy ngầm dưới nước sẽ giúp quân đội tấn công bất ngờ đối phương. Năm 1797, anh đã chế tạo xong chiếc tàu ngầm dài 6 mét, đường kính 2 mét. Nhưng hải quân Anh cũng như thống soái Na-pô-lê-ông Đệ nhât của nước Pháp không nhìn ra triển vọng của nó. Phun-tơn đành cay đắng dừng việc nghiên cứu.

Mấy năm sau, nhờ sự giúp đỡ của công tước Li-oan-si-tơn (đại sứ Mĩ ở Pháp, đồng thời là bố vợ anh), Phun-tơn đã đóng xong con tàu lắp động cơ hơi nước 8 mã lực. Ngày 9-1-1803, con tàu được hạ thuỷ, chạy thử trên sông Xen. Nhưng bão tố bất ngờ nổi lên, sấm chớp ầm ầm. Sóng gió dữ dội quật gẫy trục và bánh lái. Con tàu quay cuồng, vỡ tan. Phun-tơn đã vật lộn hơn 20 giờ với sông Xen để vớt lên những máy móc bị nhấn chìm.

Mấy tháng sau, Phun-tơn lại ngoan cường khởi công đóng một con tàu mạnh hơn, tốc độ chạy nhanh hơn. Tháng 3 năm 1805, tàu được hạ thuỷ, đưa vào sử dụng trên sông Xen giữa tiếng reo hò của mọi người.

Ngày 17-8-1807, khi đã trở về Mĩ, Phun-tơn cùng bố vợ cho hạ thuỷ con tàu mang tên Clê-mon, trọng tải 150 tân. Bốn mươi vị khách được mời du ngoạn trên tàu. Con tàu chạy ngược sóng, ngược gió theo một hành trình 240 ki-lô-mét từ thành phố” Niu Y-oóc tới thành phô” An-ba-ni chỉ mâ”t hơn một ngày. So với thuyền buồm chạy xuôi gió, Cỉê-mon lướt nhanh gâ”p đôi. Từ đây Cỉê-mon trở thành phương tiện đảm bảo giao thông giữa Niu Y-oóc với An-ba-ni.

Ngỗng và rùa

Hai vợ chồng ngỗng và rùa là những người bạn tốt. Mùa hè đến, trời bắt đầu nóng lên khiến hồ nước dần cạn kiệt. Vì vậy, chúng lên kế hoạch đi tìm một chỗ ở mới...

Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca

An-đrây-ca lên 9, sống với mẹ và ông. Ông em 96 tuổi rồi nên rất yếu. Một buổi chiều, ông nói với mẹ An-đrây-ca: "Bố khó thở lắm!..." Mẹ liền bảo An-đrây-ca đi mua thuốc.

Chàng trai chăn trâu Chu Nguyên Chương

Chuyện kể rằng, để kết giao với anh hùng hào kiệt khắp thiên hạ và thu thập lực lượng khởi nghĩa, Chu Nguyên Chương đã đóng giả thành một chàng trai chăn trâu đến Phúc Kiến. Một hôm, Chu Nguyên Chương lùa đàn trâu đến núi Linh Tú thì gặp...

Khỉ con và Sư Tử

Sư tử là chúa tể trị vì trong khu rừng nọ. Nó nổi tiếng là có tính khí hung tợn, dữ dằn và thường đưa ra những yêu cầu rất kì quái cho những động vật khác, nếu ai không đáp ứng được thì nó sẽ nổi giận...

Nin Hơ-gớc-xơn tí hon và lũ sóc

Hôm ấy, chủ trang trại nọ bắt được một con sóc cái trong rừng mang về. Mọi người trong trang trại từ già đến trẻ đều thích thú ngắm con vật bé nhỏ, có cái đuôi đẹp, đôi mắt tò mò và thông minh, linh lợi.

Bé Nam và con rùa Hồ Gươm

Bé Nam đang đứng tránh mưa trong một cái tháp nhỏ ở một góc bờ Hồ Gươm gần ngã tư đường Tràng Thi và đường Lê Thái Tổ...

Bông sen trong giếng ngọc

Ngày xưa, cách đây gần bảy trăm năm, có cậu bé Mạc Đĩnh chi con nhà nghèo, người đen đủi xấu xí. Tuy còn nhỏ, nhưng ngày nào Mạc Đĩnh Chi cũng vào rừng kiếm củi giúp đỡ cha mẹ.

Bé Xà Bông đi đâu mất rồi?

Khỉ con ngày nào cũng leo trèo nghịch ngợm, hết sờ chỗ này lại mó chỗ kia nên mặt mũi tay chân đều lấm lem hết cả. Một hôm, Khỉ mẹ tặng cho Khỉ con một cục xà bông trong suốt rất đáng yêu. Khỉ con rất thích và gọi đó là Bé xà bông...

Trăng nay chớ có xem thường

Lê Thánh Tông (1441 – 1497) là một vị vua có nhiều công lao phát triển kinh tế, văn hoá, mở mang đất nước. Nhà vua lập ra Hội Tao đàn để khuyến khích sáng tác thơ văn bằng tiếng Việt.