Những chú bé không chết

Phát xít Đức ồ ạt đưa quân sang xâm lược Liên Xô. Đến đâu, chúng cũng cướp phá, bắn giết hết sức tàn bạo… Một buổi chiều, bọn phát xít bất ngờ xông vào làng nọ. Khắp làng không một bóng người. Không gặp sự chống cự của du kích, chúng tưởng được yên thân. Nhưng trời vừa tối, tiếng súng đã nổ ran. Bọn phát xít nhớn nhác hỏi nhau: “Bắn ở đâu thế?”. Một tên lính hấp tấp từ ngoài chạy vào, nói: “Bắn nhau ở cánh rừng kia kìa! Đã bắt được một tên du kích!”

Một lát sau, mấy tên lính dẫn một chú bé đến trước mặt tên chỉ huy. Chú bé chừng mười ba, mười bốn tuổi, mặc áo sơ mi xanh có hàng cúc trắng. Tên sĩ quan hỏi :

– Mày là ai?

Chú bé kiêu hãnh trả lời :

– Tao là du kích!

Tên sĩ quan quát:

– Đội du kích của chúng mày ở đâu?

Chú bé trả lời, giọng khinh bỉ:

– Tao không biết!

Tên sĩ quan nổi giận, ra lệnh cho bọn lính hành hạ, tra tấn chú bé rất dã man, nhưng chú không nói nửa lời. Gần sáng, bọn chúng đem chú ra bắn.

Đêm hôm sau, du kích tấn công vào chính khu vực chúng đóng quân. Kho tàng của bọn phát xít nổ tung. Nhưng chúng cũng bắt được một em nhỏ.

Tên sĩ quan kinh ngạc hỏi:

– Mày là ai?

Chú bé kiêu hãnh trả lời:

– Tao là du kích!

Tên phát xít không còn tin ở mắt mình nữa.

Trước mặt hắn vẫn là chú bé mặc áo sơ mi xanh có hàng cúc trắng mà hắn đã ra lệnh cho bọn lính bắn chết đêm qua. Tên sĩ quan rền rĩ:

– Ôi lạy chúa! Đất nước này thật là ma quỷ!

Rồi hắn gào lên:

– Treo cổ! Treo cổ nó lên!

Mệnh lệnh của hắn được thi hành ngay.

Sang đêm thứ ba, bọn phát xít càng không được ngủ yên. Đêm ấy, du kích đánh thẳng vào sở chỉ huy của chúng, còn chính tên sĩ quan thì bị bắt sống đem về khu du kích trong rừng. Khi người ta mở băng bịt mắt, hắn nhìn thấy trước mặt là một người du kích đứng tuổi và bên cạnh bác ta lại là chú bé mặc áo sơ mi xanh có hàng cúc trắng. Hắn quỳ phục xuống chân chú bé, lảm nhảm như một kẻ loạn trí :

– Xin tha tội cho tôi! Tha tội cho tôi! Tôi đâu biết Ngài có thể chết đi sống lại như phù thủy thế này!

Nhưng người phiên dịch chỉ vào bác du kích đứng tuổi, bảo hắn:

– Đây là cha của hai đứa trẻ bị ngươi giết đêm hôm kia và đêm hôm qua. Trước mặt ngươi là đứa con thứ ba của bác ấy.

Tên sĩ quan phát xít kêu lên một tiếng rồi gục xuống sát đất, không dám ngẩng đầu lên.

Cá vượt đẻ

Bà Ba cẩn thận xem lại đôi quang thúng, buộc chặt thùng dầu hoả, thùng nước mắm vào để quang, lắc lắc xem có bị xô nghiêng hay không. Mưa gió là việc của trời, nhưng việc kiếm cơm của các gia đình nghèo thì không ngừng được

Cái áo hiệp sĩ

Nhà tôi có một cây nhãn tơ. Thân nó mập, chắc lẳn. Tán cây xum xuê tròn. Vào cuối mùa xuân, hàng trăm nhánh non màu nâu sậm đua nhau ngoi lên, vượt các lớp lá xanh um.

Chiếc thuyền giấy lang thang

Trên một khúc sông nọ, có một chiếc thuyền giấy màu trắng đang trôi theo chiều gió, càng ngày càng xa. Thuyền giấy đi đâu vậy nhỉ? Ngay cả nó cũng không biết nữa...

Hội võ mùa xuân

Mùa xuân năm 1753. Cây đào cổ thụ bên lễ đài thi võ đang trổ hoa đỏ thắm. Lễ đài được trang hoàng rực rỡ. Cờ xí rợp trời. Trên khán đài, đức vua Lê Hiển Tông, chúa Trịnh Doanh và đông đủ các quan đại thần đã tề tựu.

Chổi hay ghen tị

Trong họ hàng nhà chổi thì có cô bé Chổi Rơm là loại xinh xắn nhất. Cô có chiếc váy vàng óng, không ai đẹp bằng. Áo của cô cũng bằng rơm thóc nếp vàng tươi, được tết săn lại, cuộn từng vòng quanh người, trông cứ như áo len vậy...

Ngựa Trắng không nghe lời mẹ

Có một chú Ngựa Trắng lúc nào cũng muốn làm trái với những điều đã được dặn.

Củ cải trắng

Mùa đông đã đến rồi, trời lạnh buốt. Thỏ con không còn gì để ăn nữa, nó đành mặc áo ấm và đi ra khỏi nhà để tìm cái ăn.

Giản dị

Vào một đêm cuối xuân năm 1947, khoảng hai giờ sáng, trên đường đi công tác, Bác Hồ đến nghỉ chân ở một nhà bên đường.

Cậu bé viết thuê

 Đó là một cậu bé mười hai tuổi, tên là Giu-li-ô, con trai đầu của một nhân viên đường sắt. Người bố lương ít lại đông con nên đời sống rất chật vật. Ông phải kiếm việc làm thêm vào ban đêm.