Sự tích Cao Lãnh

“ Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh
 Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm ”

Đồng Tháp Mười ngoài ruộng lúa phì nhiêu và cá tôm lấp lánh, sen nở bạt ngàn, còn có sự tích về một địa danh mà không hẳn ai cũng biết, đó là: Cao Lãnh.
Hồi trước có cặp vợ chồng Đỗ Công Tường, tục danh là Lãnh, từ miền trung đến đây lập nghiệp. Sau mấy năm chí thú làm ăn, gia cư ông Lãnh khá khang trang. Tính tình ông chính trực ngay thẳng nên được dân làng cử làm chức câu đương, một chức danh để phân xử những vụ tố tụng trong làng.

Ông bà Lãnh trồng một vườn quít. Hàng xóm thường tụ tập đến đây để đổi chác, mua bán. Lâu ngày chỗ ấy thành chợ. Đó là chợ Cầu Ông Lãnh ngày nay.

Đến năm Canh Thìn (1820) , nạn dịch tả hoành hành rất dữ. Dân chúng trong lành bị bệnh , chết rất nhiều. Xóm làng chợ búa trở nên vắng vẻ, ảm đạm. Thuở ấy, chưa có thuốc men như bây giờ nên người ta cho rằng bệnh dịch tá là do trời đất, thần thánh gây ra để quở phạt dân làng. Ông Lãnh cũng không suy tư gì hơn quan niệm đương thời nên ông lập bàn thờ giữa sân chợ để khấn vái xin trời đất, thần thánh giúp dân thoát khỏi tình cảnh chết chóc bệnh hoạn ấy. Điều đáng nói là hai ông bà nguyện thế mạng mình để cầu cho dân chúng thoát cảnh đau thương.

Cúng xong, hai ông bà ăn chay ba bữa. Đến sáng hôm thứ tư thì bà Lãnh mắc bệnh. Đến tối bà qua đời. Đang lo việc an táng cho bà thì ông lại phát bệnh và cũng ra đi đột ngột. Nhân dân trong làng lo việc chôn cất ông bà xong thì bệnh dịch tá cũng tự dứt luôn. Mọi người trở lại cuộc sống an nhàn như cũ. Do vậy, họ cho rằng nhờ vợ chồng ông Lãnh thế mạng nên cứu được chúng dân. Để tưởng nhớ công ơn, dân làng lập miếu ngay trên ngôi mộ của hai ông bà, tại làng Mỹ Trà bên bờ kinh Thầy Khâm để thờ phụng, gọi là miếu ông Chủ Chợ.

Chợ vườn quít từ đó được gọi theo tên ông. Vì tên tục của ông là Lãnh, lại làm chức cầu đương, nên dân chúng thường gọi là Câu Lãnh và chợ gọi là chợ Câu Lãnh, chợ Câu Lãnh ngày càng thịnh vượng và người đến mua bán lại đọc trệch Câu Lãnh thành Cao Lãnh nên tên Cao Lãnh được dùng từ đó.

Lọ nước thần - Ai mua hành tôi

Ngày xưa có một anh chàng trẻ tuổi chưa có vợ, sống bằng nghề làm ruộng. Một ngày nọ anh xách búa lên rừng đốn củi. Trong khi đang lúi húi chặt cây, anh trông thấy một con quạ tha một con chim sẻ...

Thần sắt

Xưa có anh nông dân một mình sống ở cái lều ven rừng. Anh không có một tấc sắt nên làm ăn rất vất vả. Anh chặt củi bằng đá, đẽo cây bằng gỗ, đào hố tra bắp bằng đầu que. Khổ sở hết chỗ nói, thế mà nghèo vẫn hoàn nghèo...

Thạch Sanh - Lý Thông

Xưa ở quận Cao Bình có gia đình bác tiều phu Thạch Nghĩa, vợ chồng tuổi cao mà vẫn không con. Ông bà lo buồn và ra sức làm việc nghĩa. Ông thì sửa cầu, sửa cống, khơi rãnh, đắp đường. Bà thì nấu nước cho người qua đường uống...

Bò béo bò gầy

Ngày ấy vào thời vua Lê chúa Trịnh có hai vợ chồng một người nho sinh họ Lê. Nhân ngày cuối năm dắt nhau về thăm quê quán trong thành...

Âm dương giao chiến

Ngày ấy, có một trận mưa lụt rất dữ dội, khúc đê ở xã Thọ-triền bị vỡ, mùa màng hư hại, nhà cửa, súc vật trôi nổi theo dòng nước bạc...

Sự tích con muỗi

Có hai vợ chồng nhà nọ yêu nhau rất mực. Ngày mới lấy nhau, họ đã từng ăn thề hẹn không bỏ nhau. Nếu không may một trong hai người chết đi thì người kia sẽ chết theo để xuống âm ty cho có bạn...

Nợ như chúa chổm

Vào thời nhà Lê, có một ông quan lớn trong triều tên là Mạc Đăng Dung có chí muốn cướp ngôi vua. Nhà vua biết được tin đó nhưng thế lực của Mạc rất lớn, ông ta cầm binh quyền, bè đảng lại đông nên không thể làm gì được...

Cái cân thuỷ ngân

Ngày xưa, có một nhà làm nghề buôn bán, gian tham chế ra một cái cân cán rỗng, trong đổ thủy ngân, hai đầu bịt đồng, không ai biết. Khi cân hàng bán cho người ta thì dốc cán về đằng móc, còn khi cân hàng mua của ai thì dốc cán cân về đằng quả...

Rạch đùi giấu ngọc

Ngày xưa, một ông vua nước ngoài có một viên ngọc vô cùng quý giá. Viên ngọc có hai điều lạ, một là cầm trên tay tưởng chừng rất nhẹ, thế nhưng đặt vào đâu thì ở đấy nặng trĩu...