Sự tích hoa Phụng Tiên

Sự tích hoa Phụng Tiên

Niềm vui duy nhất trong đời của bà thợ cày Mađara là cô con gái Rôta. Rôta quả là một cô gái hiếm thấy – nước da rám nắng, hay lam hay làm, tính tình vui vẻ. Mới sáng ra nàng đã gặt được gần nửa cánh đồng lúa, chiều đến, trên đường trở về, nàng luôn miệng ca hát.

Làm việc luôn chân luôn tay, vậy mà cô gái cứ như bông hoa bừng nở, có dễ kiếm khắp làng cũng không có bông hoa nào sánh được với làng. Nàng tự tay mình trồng, chăm sóc cả một vườn hoa với những cây hoa kì lạ luôn tỏa hương thơm, rực rỡ sắc màu. Chính người làm vườn của trang trại cung rất thích được ngắm nghía vườn hoa đang độ khoe sắc của Rôta.

Trong làng có một tên điền chủ. Mặc dù hắn đã mang về nhà đủ loại hạt giống và cây non, nhưng loại hoa như của Rôta thì hắn lại không có. Hắn thắc mắc hỏi Rôta về loài hoa này, Rôta vừa mỉm cười, vừa đáp:

– Bầy chim non đã mang hạt giống từ miền xa lạ về cho tôi đấy. Tôi không nói dối ngài đâu.

Vào mùa xuân, khi đàn chim én bay đến sớm để tìm nơi ấm áp trú ngụ, Rôta thường bắt chúng nhốt vào lồng, đưa vào trong nhà nuôi dưỡng, chăm bẵm và khi mùa lạnh qua đi, nàng lại thả chúng về trời. Bây chim thơ dại muốn đền đáp ân huệ của nàng Rôta tốt bụng, song nàng chỉ mỉm cười, nói:

– Ta cần thật nhiều loại giống hoa của các miền xa lạ. Chim hãy mang về cho ta.

Bầy chim đã giữ lời hứa. Rôta lấy làm sung sướng được chia sẻ với mọi người về những cây hoa này. Người thì nàng cung cấp cho hạt giống, kẻ thì nàng cho cây non. Nàng càng tỏ ra hào hiệp với mọi người bao nhiêu, hoa trong vườn nhà nàng càng đơm hương, khoe sắc rực rỡ bấy nhiêu. Duy chỉ có Kexta, người đàn bà ở bên cạnh là nàng không bao giờ cho một hạt giống nào, mặc dù bà ta có hỏi xin.

– Con khó khắn với láng giềng gần như thế để làm gì? – Mẹ phàn nàn với Rôta, nhưng nàng đáp lại, giọng dứt khoát:

– Con sẽ không cho con mụ rắn độc này dù chỉ là một bông hoa nhỏ.

Kexta không phải là rắn độc mà là chủ nuôi rắn. Ai cũng biết mụ ta thường nuôi đến bảy con rắn độc trong nhà và lần lượt cho chúng uống sữa.

Một hôm, sau khi đã uống no, con rắn đầu tiên nói nhỏ vào tai mụ:

– Vì sao hoa của nhà Rôta lúc nào cũng bừng nở, còn hoa nhà bà thì không?

Kexta nổi cơn thịnh nộ, dẫm nát hết vườn hoa của Rôta, thậm chí cả hàng rào bao quanh khu vườn mụ cũng phá đi.

Con rắn thứ hai ỉ ôi:

– Nếu bà có nhiều hoa đẹp, bà có thể đem ra chợ bán, bà sẽ thu được cơ man nào là tiền!

– Ôi, tiền! Tiền! Ta sẽ tích góp được nhiều tiền!

Kexta như một kẻ điên khùng. Lúc ấy, có một người lạ mặt đói rách ghé vào sân nhà mụ xin ăn, con rắn thứ ba xúi:

– Chớ có phung phí tiền của nhà mình, dù cho hắn chết ngay tại đây!

Người lạ mặt liền bỏ sang nhà khác xin ăn. Thế rồi con rắn thứ tư lại phun phì phì vào tai mụ những lời đường mật:

– Mẹ bà đã còng lưng vì bà rồi, vậy bà làm việc để làm gì? Tốt nhất là bà nên nằm khệnh với chiếc chăn bông, gối nhung kia mà nghỉ cho khỏe.

Kexta nằm ườn ra giường, con rắn thứ năm nhìn thấy thế liền xúi bà lén qua nhà hàng xóm vặt trộm trái cây về ăn. Cứ như thế, bà cũng cảm thấy chán. Con rắn thứ sáu liền khích bác bà:

– Láng giềng ở đây rất tốt bụng với nhau. Bà thử xúi họ cãi nhau xem sao.

Thế là Kexta vùng dậy, chạy ngay sang nhà Babenca vốn nhẹ dạ và hay ba toác, ruột để ngoài da.

– Này, Babenca, ta đã bắt quả tang chồng bà hay trèo qua cửa sổ nhà con Rôta đó.

Mới nghe nói thế, cái lưỡi của Babenca đã liến láu tứ bên. Ả xộc ngay sang nhà kẻ tình địch. Nhưng con rắn thứ bảy mới là đáng gờm nhất. Nó luôn luôn rủ rỉ bên tai Kexta:

– Phải bằng mọi cách quấy rối cuộc sống của con người. Làm sao cho cả ngày lẫn đêm họ không thể sống yên.

Và mụ Kexta đã nghĩ ra một quỷ kế. Mụ buộc con chó vào đầu một sợi dây ngắn và đặt cách con vật không xa lắm một đĩa thức ăn thơm phức. Con chó ban ngày thì sủa ông ổng, tối đến cứ rống lên thảm thiết khiến láng giềng không sao chịu nổi. Bà chủ rắn là một người như thế, Rôta không thể đem hoa cho mụ ta được.

Lúc bấy giờ, trong làng có đợt săn lùng phù thủy do đám chức sắc trong vùng dấy lên. Lũ sai nha trong làng Rôta đem lệnh của quan trên về lập danh sách những người bị coi là phù thủy. Nhưng phù thủy ở đâu? Đó là câu hỏi làm lũ sai nha phải đau đầu. Chúng bèn treo giải thưởng lớn cho người nào có công phát giác phù thủy.

Lập tức, bảy con rắn độc đồng thanh mách Kexta:

– Thế là bà có dịp trả thù con Rôta nanh nọc rồi đó. Bà hãy đến gặp các quan và tâu rằng chính nó là phù thủy. Bà con được thưởng tiền nữa đấy.

Bà chủ rắn chỉ chờ có thế. Mụ te tái chạy đến gặp các vị chức sắc và không ngớt lời vu cáo Rôta:

– Cớ sao hoa vườn nhà nó lại nở nhiều và tươi tốt như vậy? Nhờ phép  tà đấy! Vì sao lũ chim lại giúp nó? Có phép tà đấy! Vì sao lúc nào nó cũng hát với hò?

Các vị chức sắc cả mừng vì đã tìm được phù thủy, chúng bất chấp cả lệ làng, chẳng tin bất lỳ một lời nói trung thực nào, chỉ tin lời mụ chủ rắn. Rôta bị chúng đem thiêu đốt trên giàn lửa. Sau đó, chúng tâu lên triều đình rằng an ninh ở làng quê đã trở lại bình thường.

Mùa xuân tới, bầy chim từ khắp các miền xa xôi bay tới đậu trên cửa sổ nhà Rôta cùng với rất nhiều loại giống hoa. Bầy chim rất đỗi kinh ngạc khi thấy một bà lão lưng còng ra mở cửa sổ chứ không phải là Rôta.

Mađara, mẹ của Rôta, đã đem những hạt giống trồng vào một chậu hoa. Chẳng bao lâu người ta thấy có những bông hoa đỏ như lửa mọc lên.

– Những bông hoa đáng yêu của ta! Các người khác nào cặp má hồng hào của Rôta. Các ngươi sẽ là phương thuốc thần hiệu giúp ta trị vết thương nơi trái tim.

Từ đó, hễ có người nào bị nỗi cay đắng giày vò, bà mẹ Rôta lại đem giống đó phân phát cho họ. Chẳng bao lâu trên khắp các cửa sổ của các gia đình nghèo đều nở óng ánh những bông hoa đỏ tươi –  đấy chính là hoa phụng tiên

Nàng công chúa ngủ trong rừng

Ngày xưa, có một ông vua và một bà hoàng hậu ngày nào cũng mong: "Ước gì mình có một đứa con nhỉ?." Nhưng ước hoài mà vua và hoàng hậu vẫn chưa có con...

Alibaba và bốn mươi tên cướp

Một ngày nọ, khi đang đốn củi trong rừng, Ali Baba trèo lên một thân cây để chặt một cành cao. Đột nhiên anh ngừng đốn vì nghe có tiếng vó ngựa. Một nhóm người đang cưỡi ngựa đến. Trông họ có vẻ dữ dằn và giống những tên cướp...

Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn

Hồi ấy đang giữa mùa đông, hoa tuyết như những lông chim bay khắp bầu trời, có một bà hoàng hậu ngồi khâu bên cửa sổ...

Chiếc bật lửa thần

Một anh lính đang đi trên đường cái. Một, hai! Một, hai! Bọc đồ trên lưng và gươm cạnh sườn, anh vừa tham chiến về, đang trên đường trở lại quê hương. Dọc đường, anh bỗng gặp một mụ phù thuỷ già...

Con rắn trắng

Thuở ấy có một ông vua nổi tiếng trong cả nước là thông minh, học rộng, biết nhiều. Không cái gì là vua không biết. Người ta có cảm giác dường như gió đưa lại cho vua những tin tức bí mật nhất...

Con gà trống chân chì

Con gà trống ấy có đôi chân chì, lông ở cánh đen mượt như nhung, lông ở ngực vàng thắm, cái mào trên đầu thì đỏ chói, vắt qua vắt lại. Tiếng nó hay ồ ồ, vang rất xa. Nó sống với bà già cô đơn trong một túp lều nát...

Cô bé bán diêm

Vào buổi đêm giáng sinh ngày ấy, bên ngoài trời những bông tuyết cứ triền miên rơi mãi mà không dừng, những cơn gió lạnh thấu xương lại tô điểm hơn cho cái ngày giáng sinh vô cùng đặc biệt trong năm, cái ngày mà chúa sinh ra đời…

Con ngựa mù

Ngày xưa lâu lắm rồi, trên đất nước Nga có một thành phố buôn bán sầm uất ở gần cửa biển. Ở thành phố ấy có một thương nhân rất giàu có. Thuyền ông ta chở hàng đi khắp bốn biển năm châu nên ông ta thu được nhiều bạc vàng...

Người da gấu

Xưa có một anh thanh niên đi lính, rất dũng cảm, luôn luôn xung phong đi dưới mũi tên hòn đạn. Trong thời chiến, mọi việc đều ổn, nhưng đến thời bình, anh bị thải hồi. Tên đại úy chỉ huy bảo anh tùy muốn đi đâu thì đi...