Thầy giáo dạy vẽ

Tôi muốn kể với các em về thầy giáo dạy vẽ của tôi. Thầy dạy chúng tôi cách đây đã mười bảy năm, khi đó chúng tôi mới học lớp 5, mà thầy thì mái tóc đã bạc phơ…

Tuần trước, vào một buổi tôi, có hai người bạn học cũ đến thăm tôi: Châu – hoạ sĩ và Hiền – kĩ sư một nhà máy cơ khí. Châu hỏi tôi:

– Cậu có nhớ thầy Bản không?

– Nhớ chứ ! Thầy Bản dạy vẽ bọn mình hồi nhỏ phải không?

– Đúng rồi, thầy mới mất hôm đầu tháng. Mình có đến dự đám tang, nhưng không kịp dến báo cho các cậu. Thầy về hưu đã lâu; những năm cuối, thầy yếu mệt nhiều, vẫn ở trên căn gác xép với một cô cháu gái…

Tôi sững sờ nhớ lại hình ảnh của thầy Bản. Đã lâu lắm tôi không gặp lại thầy, trừ một lần, đạp xe qua phố, tôi thấy thầy đứng xếp hàng trước một quầy hàng dầu hoả. Nếu gặp, chắc thầy cũng không nhận ra tôi: Thầy dạy nhiều lớp, nhiều học trò, và môn hoạ một tuần chỉ có một tiết.

Hổi ấy, thầy bao nhiêu tuổi, tôi không rõ. Chỉ biết thầy dạy học đã lâu, nhiều cô giáo, thầy giáo trong trường từng là học trò của thầy.

Thầy ăn mặc theo kiểu của trí thức thời trước: Bộ com-lê đen đã cũ lắm, nhưng chiêc ca-vát vẫn luôn thắt chỉnh tề trên cổ. Thầy thường đội mũ nồi, bộ râu mép rậm lấm tấm bạc, đôi giày cũ và chiếc cặp da nâu cũng đã sờn rách.

Thầy luôn đăm chiêu, nhưng hiền hậu. Chẳng bao giờ thầy cáu giận, gắt gỏng chúng tôi. Cũng chang bao giờ thầy bỏ một tiết lên lớp nào, kê cả những hôm thầy yếu mệt, giọng run run.

Các cô giáo, thầy giáo trong trường kể rằng thầy là một trong những hoạ sĩ học khoá đầu tiên Trường Cao đắng Mĩ thuật Đông Dương. Bạn học của thầy, hầu hết đều đã trở thành những hoạ sĩ có tên tuổi, có người nổi tiếng ở cả nước ngoài. Riêng thầy Bản chỉ là một giáo viên dạy vẽ bình thường ở một trường cấp hai.

Thầy dạy chúng tôi kẻ chừ, vẽ cái sọt giấy, lọ mực, viên gạch, thỉnh thoảng mới có một bài “vẽ tự do” cảnh chùa hoặc lao động ở vườn trường. Thầy dạy rất ân cần, tỉ mỉ, chỉ bảo cho chúng tôi từng li từng tí : cách tô màu, đánh bóng, cả cách gọt bút chì thế nào cho đẹp và dễ vẽ. Nhưng thú vị hơn cả là những câu chuyện của thầy, Thầy thường nói say sưa với chúng tôi về hội hoạ, về màu sắc và đường nét, về cái thế giới thứ hai, thế giới rực rỡ, kì lạ của những bức tranh, những cánh cửa mở tới những khu vườn tốt lành và đẹp đẽ. Có những lần, thầy đưa chúng tôi về nhà thầy chơi, về gian gác hẹp xếp đầy sách vở và tranh ảnh. Thầy đưa chúng tôi xem những quyển tranh của các bậc danh hoạ. Thầy cũng cho chúng tôi xem những bức tranh thầy vẽ, những bức tranh nhỏ, vẽ rất tỉ mỉ những bình hoa nhiều màu, những ngôi nhà, những em bé hàng xóm,… Thầy vẽ chậm, vẽ kĩ, không hiểu có đẹp không, nhưng tranh của thầy ít được mọi người chú ý. Chúng tôi có đi hỏi, nhưng chẳng thấy ai biết đến hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản.

Chẳng hiểu vì thầy không có tài hay không gặp may, tuy thầy rất yêu hội hoạ, dành hết sức lực và tiền bạc cho nó. Vợ con thầy đều đã mất từ lâu. Thầy bảo giờ đây, nguồn vui của thầy chỉ là công việc và các em học sinh. Chúng tôi đều rất quý và thương thầy. Có lần đến lớp, vẻ nghiêm trang và xúc động, thầy nói với chúng tôi :

– Ở triển lãm mĩ thuật thành phố, người ta có bày một cái tranh của tôi…

Thầy mỉm cười rụt rè khẽ nói thêm:

– Các em đến xem thử…

Chiều hôm ây, mấy đứa chúng tôi – trong đó có Châu và Hiền – rủ nhau đến phòng triển lãm. Trong gian phòng chan hoà ánh sáng, bức tranh của thầy Bản treo ở một góc. So với những bức tranh to lớn trang trọng khác, bức tranh của thầy thật bé nhỏ trong một chiếc khung cũ. Bức tranh vẽ rất cẩn thận một lọ hoa cục, mấy quả càm, những cánh hoa vàng rơi trên mặt bàn… Mọi người đi lướt qua, chang ai để ý tới bức tranh của thầy. Chúng tôi ngồi xuống cạnh bàn dùng đê ghi cảm tưởng của người xem : chẳng thấy ý kiến nào khen ngợi hoặc nhắc đến bức tĩnh vật của thầy giáo chúng tôi. Lúc ấy, chúng tôi thấy thầy Bản cũng đến, thầy đi lại trong phòng triển lãm, nhìn người xem rồi lại nhìn về bức tranh của mình, bồn chồn, hồi hộp. Rồi sau cảm thấy đứng mãi ở đây không tiện, thầy lại lóc cóc ra lấy xe đạp, đạp đi.

Càng thương thầy, chúng tôi càng giận những người xem vô cùng. Nảy ra một ý, chúng tôi bàn khẽ với nhau, rồi mở quyển sổ ghi cảm tưởng, chúng tôi thay nhau viết:

Trong phòng triển lãm này, chúng tôi rất thích bức tranh của ho ạ sĩ Nguyễn Thừa Bẩn !

Bức tranh tĩnh vật của hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bẳn rất đẹp. Hoạ sĩ là một người có tài năng vả cần cù lao động. Kính chúc hoạ sĩ mạnh khoẻ…

Rồi chúng tôi kí những cái tên giả dưới các ý kiến đó. Ngoài mây đứa chúng tôi, không ai biết việc này.

Vài hôm sau, thầy Bản đến lớp. Bối rối vì cảm động, thầy báo tin:

– Các em ạ… Bức tranh ở triển lãm của tôi… cũng được một sô’ người thích… Họ có ghi cảm tưởng… Ban tổ chức có đưa cho tôi đọc… tôi có ghi lại…

Thầy húng hắng ho, rồi nói thêm, vẻ ân hận:

– Bức tranh ấy tôi vẽ chưa được vừa ý… Nếu vẽ lại, tôi sẽ sửa chữa nhiều…

Thương thầy quá, chúng tôi suýt oà lên khóc. Thầy không chỉ làm cho chúng tôi yêu hội hoạ, thầy còn là một tấm gương về sự cần cù, lòng trong sạch, tình yêu thương trân trọng với công việc bình thường của mình. Thầy không phải là một nghệ sĩ nổi tiếng như các bạn của thầy, nhưng đối với chúng tôi, hình ảnh hiền hậu khiêm nhườngcủa thầy đáng quý trọng biết bao.

Có lẽ đến phút cuối của cuộc đời, thầy cũng không biết rằng chính chúng tôi – những học trò nhỏ của thầy – đã viết vào quyển vở cảm tưởng trong kì triển lãm ấy.

Bây giờ, thầy Bản không còn nữa !

Tôi ấy, ngồi với nhau, chúng tôi nhắc nhiều và nhớ nhiều đến thầy…

Thưa thầy giáo dạy vẽ kính yêu !

Viết những dòng này, chúng em muôn xin thầy tha lỗi cho chúng em, và muôn lần nữa được thưa với thầy rằng chúng em biết ơn thầy, mãi mãi biết ơn thầy…

 

Ý nghĩa

Người thầy giáo dạy vẽ tuy không có những bức tranh nổi tiếng nhưng luôn tận tuy với công việc và sông hiền hậu, khiêm nhường cũng là người rất đáng kính trọng. Hình ảnh thầy trong tâm trí học trò chính là bức tranh đẹp nhát vì bức tranh ấy chứa đựng tình cảm yêu thương và lòng biết ơn sâu nặng.

Cái gái và bà cụ Mít

Bà cụ Mít già lụ khụ lưng còng gập xuống, tóc bạc trắng như cước, sống một mình trong cái quán nhỏ dưới gốc đa cổ thụ đầu làng. Hằng ngày cụ nâu nước chè để bán nên trong làng gọi là “quán cụ Mít”.

Giai thoại về bản xô-nát Ánh trăng

Gần 200 năm trước đây, nằm bên bờ sông Ranh, miền tây nước Đức, có một thị trấn bé nhỏ và nghèo nàn. Đó là thành phố Bon ngày nay, quê hương của nhà soạn nhạc vĩ đại Bét-tô-ven.

Lời bác giữ kho

Thường ngày, Dạ Dày là một bác giữ kho làm việc giỏi. Kho của bác không bao giờ giữ lại lâu một thứ gì. Bác thường dặn cậu Mồm: Bất cứ làm việc gì cũng phải có kế hoạch. Ăn cũng thế, phải điều độ.

Con đã lớn thật rồi!

Có một cô bé sang nhà dì chơi. Vì đang dỗi mẹ nên em ngồi buồn thiu. Thấy vậy, dì hỏi: Cháu có chuyện gì buồn à? Đến bữa rồi, ăn cơm với dì nhé?

Đất quý, đất yêu

Ngày xưa, có hai người khách du lịch đến nước Ê-ti-ô-pi-a. Họ đi khắp đất nước thăm đường sá, núi đồi, sông ngòi. Vua nước Ê-ti-ô-pi-a mời họ vào cung điện, mở tiệc chiêu đãi và tặng họ nhiều vật quý. Sau đó vua sai một viên quan đưa khách xuống tàu.

Một chuyến tham quan

Bé Loan học lớp mẫu giáo 5 tuổi. Một hôm, cơ quan mẹ Loan tổ chức đi tham quan Hà Nội. Thấy Loan ngoan, biết vâng lời bố mẹ, mẹ bàn với bố cho Loan đi cùng.

Dúi con nói sai rồi

Mùa xuân đã đến với khu rừng nhỏ, các loài động vật trong rừng đều đang bận rộn trang hoàng lại nhà cửa. Dúi con cũng tất tả đi mua gỗ lát sàn nhà, mua gạch men để làm đẹp cho ngôi nhà của mình...

Một phút

Mọi người trong gia đình đều có tính cẩn thận và quý trọng thời giờ, chỉ trừ có Mi-chi-a. Mi-chi-a bao giờ cũng chậm trễ hơn người khác. Đến giờ ăn, mọi người đã ngồi vào bàn, chỉ thiếu Mi-chia-a.

Vẫn chưa ngủ dậy

Dumas là nhà văn nổi tiếng người Pháp. Một buổi tối nọ, Dumas và một người bạn là nhà biên kịch đến nhà hát lớn để xem kịch. Đúng hôm đó, nhà hát lại diễn một vở bi kịch do chính người bạn này biên soạn...