Vì sao phải xây dựng các khu bảo tồn biển tự nhiên?
Biển là cái nôi của sự sống. Ngày nay ở đó còn sinh sống hơn 20 vạn loài sinh vật, Theo thống kê, giới động vật học có 32 họ loài, trong đó có 23 họ sống ở biển. Mặc dù như thế, đối với nhiều chủng loại trong đó đến nay loài người vẫn chưa có nhận thức đầy đủ, càng chưa biết khai thác để lợi dụng. Nhưng những sinh vật ngày nay chưa biết lợi dụng không có nghĩa là ngày mai chúng không có tác dụng. Ví dụ trước đây loài sao biển bị người ta cho là loài có trăm điều hại, không có tí lợi ích gì thì những năm gần đây các nhà dược vật học đã phát hiện nó có giá trị dược học rất cao. Từ loài sao biển có thể luyện ra một loại keo, dùng làm nguyên liệu huyết tương nhân tạo của người. Ngoài ra trong vỏ sao biển chứa một chất có thể hạ thấp cholesterol trong máu, nó có thể chế thành loại thuốc để chữa bệnh mạch máu não và tim. Điều đó chứng tỏ biển cả mêng mông là kho báu tài nguyên sinh vật, con người nên bảo vệ nó.
Nhưng cùng với sự phát triển của khoa học và kỹ thuật, phạm vi khai thác biển không ngừng được mở rộng, đem lại những ảnh hưởng bất lợi cho môi trường và tài nguyên tự nhiên của biển. Rõ nhất là một số loài cá đang giảm dần, một số động vật quý hiếm đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng. Điều đó khiến cho mọi người ngày càng quan tâm hơn. Để bảo bệ môi trường biển, thúc đẩy tài nguyên biển có thể tiếp tục phát triển, một số nước có biển đã xây dựng khu bảo tồn tự nhiên.
Khu bảo tồn tự nhiên biển là khu vực tự nhiên được tăng cường bảo vệ hệ thống môi trường và sinh thái biển, bảo vệ môi trường động thực vật quý hiếm, những di tích lịch sử tự nhiên quan trọng cũng ngư những khu vực, hải đảo và bờ biển có những giá trị đặc biệt. Xây dựng khu bảo vệ tự nhiên biển là giữ lại một bộ phận trạng thái tự nhiên của biển không cho con người can thiệp, khiến cho các loài sinh vật biển có môi trường sống tốt, khiến cho những động thực vật quý hiếm, những sinh vật sắp tuyệt chủng được bảo vệ để giữ gìn, tạo cho con người có thể tiếp tục sử dụng, khai thác. Do đó xây dựng khu bảo tồn tự nhiên biển có ý nghĩa quan trọng đối với sự khai thác tài nguyên biển, nghiên cứu khoa học, sự nghiệp văn hoá, giáo dục và du lịch.
Trên quốc tế người ta thường lấy việc xây dựng những khu bảo tồn tự nhiên biển làm một trong những tiêu chuẩn để đánh giá về mức độ bảo vệ biển và trình độ văn hóa của một nước.
Từ năm 1935 ở bang Floriđa Mỹ đã xây dựng khu bảo tồn tự nhiên biển. Năm 1938 ở vùng Tapao nổi tiếng của Ôxtrâylia đã xây dựng công viên biển, ngày nay chỗ đó trở thành khu bảo tồn tự nhiên biển rộng lớn.
Trung Quốc bắt đầu từ năm 1972 xây dựng khu bảo tồn tự nhiên biển, năm 1995 chính thức ban bố "Biện pháp quản lý khu bảo tồn tự nhiên biển". Đến nay Trung Quốc đã xây dựng trên 10 khu bảo tồn tự nhiên biển cấp quốc gia. Những đối tượng được bảo vệ có động vật quý hiếm, cá văn xương (lưỡng tiêm), rùa biển, các loài chim, rắn trên đảo và cảnh quan tự nhiên của bờ biển, các bãi san hô và rừng đước.
Tháng 5 năm 1998 khu vực bảo tồn tự nhiên biển Thiên Tân đã ký kết Hiệp định quan hệ hợp tác với khu bảo tồn nghiên cứu cửa sông quốc gia vịnh Xêsapik của Mỹ, vườn bảo tồn tự nhiên quốc gia ở Hải Nam cũng ký Hiệp định với khu bảo hộ tự nhiên quốc gia quần đảo Floriđa Mỹ. Theo quy định và quy hoạch của các ngành liên quan của Trung Quốc, trong mấy năm tới còn xây dựng từ 15 - 25 khu bảo hộ tự nhiên biển cấp quốc gia, khiến cho môi trường sinh thái biển ngày càng được bảo vệ tốt hơn.