Vì sao cá lại di cư?
Người ta thường lẫn lộn giữa hai khái niệm cá hồi hương và cá di cư. Thực ra đó là hai vấn đề khác nhau. Hồi hương là một hình thức vận động đặc biệt của cá. Đã từ lâu đời, cùng với sự biến đổi của môi trường bên ngoài, cơ thể cá cũng biến đổi theo. Sự hồi hương của cá còn liên quan mật thiết đến thức ăn, sinh đẻ, trứng nở và nhiệt độ thích hợp. Vì vậy, theo tính chất hồi hương mà xét thì có sự hồi hương vì tìm kiếm thức ăn, hồi hương vì sinh sản và hồi hương theo mùa.
Hành vi di cư của cá là vì sự kích thích của môi trường bên ngoài làm cho cá không chịu đựng được nên phải bỏ trốn trong một thời gian. Ví dụ do điều kiện lý - hóa trong môi trường xấu đi, hoặc do nước biến chất, hoặc bị săn bắt, tấn công mà khiến cho các loài cá phải chuyển dời hoặc trốn đi nơi khác. Hành vi này là phản ứng bản năng có tính bảo vệ của loài cá, do đó mà phương hướng và phạm vi vận động của đàn cá không cố định, cự li di cư dài hay ngắn, thời gian bao lâu đều quan hệ mật thiết đến mức độ bị kích thích và khu vực đó rộng hay hẹp.
Hiện nay trong nước thải nông nghiệp chứa nhiều thuốc bảo vệ thực vật, phân hóa học và nước thải công nghiệp chứa nhiều chất độc hại, đó là nguyên nhân trực tiếp làm cho loài cá di cư. Hành vi di cư này chủ yếu là thông qua các thông tin như khứu giác, vị giác, thị giác, các đường bên (trắc tuyến) nhận tín hiệu hai bên hông bị kích thích. Tính nhạy cảm của cá là do tính chất và cường độ của các chất kích thích cũng như cảm giác của cá là do năng lực của nó quyết định. Các cơ quan vị giác và cảm giác phân bố ở khoang miệng, râu và một số bộ phận trên bề mặt vây, nó có độ nhạy cảm rất cao đối với ion của một số kim loại nặng như đồng, kẽm, chì, thủy ngân, v.v.. Loài cá có vảy, đường trắc tuyến (vạch màu trên vảy) có lỗ nhỏ thông với bên ngoài, nó có độ nhạy rất mạnh đối với chất lượng nước. Khi nồng độ ion kim loại khá lớn, cá sẽ cảm giác được và có phản ứng xa lánh. Đường trắc tuyến của cá có phản ứng rất mạnh đối với thuốc bảo vệ thực vật như DDT và chúng có hành vi xa lánh rất rõ. Ngoài ra, khi trong nước thiếu oxi, hàm lượng khí CO2 tăng lên cũng như khi độ pH và thành phần muối thay đổi sẽ khiến cho cá bỏ đi. Ví dụ khi hàm lượng oxi tan trong nước 4 mg/lít nó sẽ cảm thấy bất an và tìm cách bỏ đi. Hiện nay ô nhiễm biển ngày càng nặng, uy hiếp đến sự sinh tồn của các loài cá, do đó một số loài cá có hành vi di cư.
Hành vi này của cá là bất đắc dĩ. Khi chúng ta nhận biết điều này có thể thông qua quan sát hành vi các loài cá để giám sát mức độ ô nhiễm môi trường nước. Nước ô nhiễm có thành phần rất phức tạp, khó dùng một chỉ tiêu lí – hoá riêng rẽ để xử lý. Nhưng thông qua thí nghiệm về sự chạy trốn của loài cá, trên một mức độ nhất định sẽ phản ánh được tình trạng ô nhiễm hỗn hợp và độ độc thực tế của nước ô nhiễm. Như vậy người ta có thể kịp thời dùng những biện pháp thích hợp để tẩy trừ ô nhiễm, bảo vệ môi trường nước.
Từ khoá: Bỏ trốn