Dẹp tình riêng vì nghĩa lớn

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (1232 – 1300) là một vị anh hùng dân tộc lỗi lạc. Ông được nhân dân tôn là Thánh (Đức Thánh Trần), đời đời thờ phụng không phải chỉ vì tài năng quân sự kiệt xuất và những chiến thắng lẫy lừng mà còn vì tấm gương yêu nước mẫu mực của ông.

Thân phụ Trần Quốc Tuấn là An Sinh Vương Trần Liễu vốn có hiềm khích riêng với vua Trần Thái Tông nên đem lòng oán giận. Khi sắp mất, An Sinh Vương cầm tay Quốc Tuấn trối trăng lại rằng:

– Con hãy vì cha mà lấy thiên hạ. Nếu không, nơi chín suối cha không thể nhắm mắt.

Biết cha không quên hận cũ, Quốc Tuấn đành gật đầu để cha yên lòng, nhưng ông không cho đó là điều phải và luôn tìm cách hoà giải mối hiềm khích trong gia tộc.

Khi quân Nguyên sang xâm lấn nước ta, Quốc Tuấn một mình nắm giữ binh quyền. Có lần, Quốc Tuấn đem lời trối trăng của cha hỏi hai gia nô là Yết Kiêu và Dã Tượng. Hai người can ngăn mà nói:

– Nếu thi hành kế ấy, dù có giàu sang một thời nhưng tiếng xấu để đến ngàn đời không hết. Chúng tôi tình nguyện làm kẻ nô bộc đến già chứ không muốn làm điều bất trung, bất hiếu để cầu một chức quan.

Quốc Tuấn nghe hai gia nô nói vậy, cảm động ứa nước mắt.

Lần khác, Quốc Tuấn cũng đem chuyện này vờ hỏi ý con là Hưng Vũ Vương Quốc Nghiễn:

– Cổ nhân được cả thiên hạ để truyền cho con cháu về sau. Việc này ý con thế nào?

Quốc Nghiễn thưa rằng:

– Việc ấy đối với người khác họ cũng không nên làm, huống chi là người cùng dòng họ.

Quốc Tuấn rất lấy làm phải. Sau, ông lại đem câu ấy hỏi con thứ là Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng. Quốc Tảng nói:

– Tống Thái Tổ là một người làm ruộng, chỉ nhờ gặp thời vận mà lấy lại được thiên hạ.

Quốc Tuấn liền tuốt gươm, kể tội rằng :

– Bọn bề tôi phản loạn đều là do những đứa con bất hiếu mà ra.

Nói rồi, có ý giết đi. Quốc Nghiễn vội chạy ra van khóc, xin nhận tội thay, mãi sau mới được Quốc Tuấn tha cho. Khi sắp mất, Quốc Tuấn bảo với Quốc Nghiễn rằng:

– Khi ta mất, đậy nắp quan tài xong xuôi rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng khóc.

Cuối năm 1284, quân Nguyên rầm rộ kéo sang xâm lược nước ta lần thứ hai, khí thế rất hung hãn. Vua Trần Nhân Tông nói với Quốc Tuấn :

– Thế giặc mạnh như vậy, có lẽ ta hãy tạm xin hàng.

Quốc Tuấn nói:

– Bệ hạ muốn hàng, trước hết hây chém đầu thần đi đã.

Quốc Tuấn hết lòng với nhà Trần, trung nghĩa rõ ràng, chí công vô tư, biết dẹp tình riêng vì nghĩa lớn để cố kết lòng người, tạo nên khối đoàn kết toàn dân, anh em hoà thuận, trên dưới một lòng chống giặc. Vì thế ông đã lập nên công trạng hiển hách: Giúp vua nhà Trần ba lần đánh tan ba cuộc xâm lược của giặc Nguyên. Vì có công to, ông được gia phong là Thượng quốc công, được quyền tự ban thưởng cho người khác, nhưng Quốc Tuấn chưa hề tự ban thưởng cho một ai. Ông còn có công tiến cử nhiều bậc hiền tài cho đất nước.

Chẳng giống nhau

Nghỉ hè, Ni-ki-ta, Gô-sa, Chi-om-ka về thăm bà ngoại. Ăn cơm xong, cả ba rời khỏi bàn...

Chuyện của mây

Trên trời có một đám mây xinh đẹp, suốt ngày nhởn nhơ bay lượn. Nhưng bay mãi một mình, mây cũng cảm thấy buồn. Mây chợt nhớ tới chị gió, vội bay đi tìm chị.

Người bạn mới

Cả lớp đang giải bài tập toán, bỗng một phụ nữ lạ bước vào, khẽ nói với thầy giáo: Thưa thầy, tôi đưa con gái tôi đến lớp. Nhà trường đã nhận cháu vào học…

Chú bò Ba Bớt

Ba Bớt là con bò đẹp. Ở nó hội đủ các tiêu chuẩn: mình thon, chân cao, mắt sáng, lông mượt, sừng khoẻ, dáng đi oai vệ. Giữa cái trán rộng màu hạt dẻ nổi lên ba cái bớt màu trắng, thế nên nó có tên là Ba Bớt.

Lợn con sạch lắm rồi

Trong khu rừng nọ có nhiều bạn nhỏ sinh sống: Gấu Con, Thỏ Con, Khỉ Con, Dê Con, Cún Con và Lợn Con...

Người thợ săn và con dê núi

Đã ba lần ông Bỉnh nhìn thấy con dê núi. Lần thứ nhất vào lúc sẩm tối. Ông vừa lội qua con suối, chợt nghe thấy tiếng động ông vội ngước lên...

Ong và Rùa

Buổi sáng, ông Mặt Trời như chiếc mâm lửa từ từ nhô lên ở phía đằng đông.

Hồ Gương

Có một hồ nước rộng, trông thấy đáy. Những khi gió nhẹ mặt hồ phẳng lặng như gương. Một chú Chim nhỏ bay qua thấy bóng mình dưới nước, bèn cất tiếng

Nhân cách quý hơn tiền bạc

Mạc Đĩnh Chi (1272 -1346) quê ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, thi đỗ Trạng nguyên năm 1304. Mạc Đĩnh Chi làm quan trải qua ba triều nhà Trần. Ông thông minh, giỏi thơ văn và có tài đối đáp rất sắc bén.