Rô-bin-sơn ở đảo hoang

Rô-bin-sơn Cru-sô là một chàng trai người Anh rất ham mê đi biển. Trong một chuyến đi, con tàu của anh gặp một cơn bão khủng khiếp. Tất cả các bạn đồng hành của anh đều chết, chỉ mình anh may mắn sống sót, dạt lên một hòn đảo hoang. Hoàn cảnh của Rô-bin-sơn lúc đó thật bi đát: Một thân một mình trơ trọi trên một hòn đảo giữa biển khơi, người ướt sũng, không có quần áo để thay, không có thức ăn, nhà ở, không có vũ khí phòng thân, lúc nào cũng có thể bị thú dữ ăn thịt. Lúc đầu, Rô-bin-sơn hoảng sợ, khóc than. Sau, anh sớm trấn tĩnh, chiến thắng nỗi tuyệt vọng.

Rất may, khi bão tan, anh thấy con tàu của mình bị dạt vào một bãi đá. Ngày ngày, khi thuỷ triều xuống, anh bơi ra tàu, mang dần lên đảo tất cả những gì có ích còn sót lại (thức ăn, những vật dụng dao, rìu, khí giới, thuốc súng, dây chão, những lá buồm,…) trước khi chiếc tàu bị bão một lần nữa đánh tan.

Sau khi lấy hết được mọi thứ trên tàu, Rô-bin-sơn quyết định dựng một ngôi nhà đặc biệt đê cất giữ đồ đạc, bảo vệ mình khỏi thú dữ và những kẻ thù hung bạo bất chợt đến. Thăm dò vùng đất mới, anh đã tìm được một mảnh đất bằng phẳng, dựng trên đó một ngôi nhà. Ngôi nhà nằm sát dưới chân một ngọn núi cao, gần chỗ có nguồn nước ngọt, ba bề thoai thoải xuống các vùng đất thấp sát mặt biển nên rất dễ phát hiện nếu có con tàu nào đó đi qua. Mặc dù đảo trơ trọi giữa biên cả mênh mông, cách rất xa những lộ trình hàng hải, Rô-bin-sơn vẫn hi vọng sẽ có ngày được trở về quê hương.

Kiên trì, nhẫn nại suốt mấy năm ròng, anh đã xây dựng được một ngôi nhà vừa có một cái hang chìm sâu dưới đất, vừa có một túp lều nổi lên mặt đất, bao quanh nhà là thành luỹ được tạo nên bởi hai lớp cọc rào bằng gỗ đắp đất. Thành luỹ được đắp cỏ bên ngoài khiến ai bước chân lên đảo cũng khồng thê nhận ra ở đây có người đang sống.

Làm xong nhà, Rô-bin-sơn đang bắt tay củng cố nơi ăn chốn ở thì một trận động đất dữ dội bất ngờ xuất hiện. Đất đá ầm ầm từ trên trần hang và đỉnh núi lao xuống như sấm rền. Nỗi sợ sẽ bị chôn sống dưới đất đá khiến Rô-bin-sơn phải dời nhà, bắt đầu lại công việc dựng nhà gian khổ.

Lao động vất vả khiến Rô-bin-sơn kiệt lực, bị những cơn sốt rét hành hạ. Anh tự tìm cách chữa bệnh. Khỏi bệnh, anh tiếp tục ổn định cuộc sống: Đóng bàn ghế, trồng lúa, đóng thuyền, bắt dê rừng về nuôi, khám phá hòn đảo để tìm những vườn quả… Mỗi công việc đều tốn của anh rất nhiều thời gian và sức lực nhưng anh không nản chí.

Sau 23 năm sống đơn độc trên đảo, Rô-bin-sơn bất ngờ phát hiện ra một điều khiến anh kinh hãi: Các thổ dân da đen ăn thịt người thỉnh thoảng vẫn ghé vào đảo để thực hiện những cuộc hành hình dã man.

Đến năm thứ 24, qua kính viễn vọng, Rô-bin-sơn thấy 5 chiếc xuồng chở 30 thô dân tiến vào đảo. Họ nhóm lửa, hành hình hai tù binh. Người thứ nhất đã bị giết chết và làm thịt. Người thứ hai lợi dụng sơ hở của kẻ thù vùng chạy. Rô-bin-sơn kịp thời chặn đường những thổ dân đuổi theo người tù binh và cứu thoát anh ta. Anh đặt tên cho người tù binh là Thứ Sáu để ghi nhớ ngày anh ta được cứu sống. Cuộc sống của anh trở nên êm đẹp khi anh đã có một người bạn, một người giúp việc tận tuy, trung thành, sẵn sàng hi sinh tính mạng để bảo vệ anh. Rô-bin-sơn đã dạy Thứ Sáu trồng lúa, bắn súng, xem bản đồ, nói tiếng Anh…

Đến năm thứ 27, Rô-bin-sơn và Thứ Sáu đã chiến đấu với 21 thổ dân vào đảo. Họ đã chiến thắng và cứu được 2 tù binh: Một người là cha của Thứ Sáu, người kia gốc Tây Ban Nha. Nửa năm sau, theo đề nghị của người Tây Ban Nha, Rô-bin-sơn đồng ý tiếp nhận thêm 14 người Tây Ban Nha bị đắm tàu, dạt vào bờ biển, đang sống với các thô dân ở đảo bên.

Khi người Tây Ban Nha cùng cha của Thứ Sáu đi đón những người lưu lạc, một chuyện bất ngờ đã xảy ra: Hai người trông thấy trên biển một con tàu. Thì ra đó là một chiếc tàu Tây Ban Nha. Một nhóm thuỷ thủ trên tàu nổi loạn cướp tàu, bắt viên thuyền trưởng, thuyền phó đày lên hòn đảo của Rô-bin-sơn. Rô-bin-sơn và Thứ Sáu đã cứu thuyền trưởng, thuyền phó, tô chức chiến đấu, tiêu diệt những kẻ phản loạn, chiếm lại con tàu.

Ngày 19 tháng 12 năm 1686, Rô-bin-sơn rời đảo, lên tàu trở về Tổ quốc sau 28 năm lưu lạc. Cuộc đời Rô-bin-sơn chứng minh một điều: Con người bằng ý chí, nghị lực, trí tuệ của mình có thể một mình tồn tại và làm nên những kì tích phi thường trên một hòn đảo hoang vu.

Văn hay chữ tốt

Thuở đi học, Cao Bá Quát viết chữ rất xấu nên nhiều bài văn dù hay vẫn bị thầy cho điểm kém.

Đẹp mà không đẹp

Thấy bác Thành đi qua, Hùng liền gọi: Bác Thành ơi, bác xem con ngựa cháu vẽ có đẹp không?

Nhím con và ngôi nhà bí đỏ

Sau cơn mưa, Nhím con phát hiện trên bãi cỏ có một quả bí đỏ to ơi là to. Nó đi vòng quanh quả bí và sung sướng cười phá lên, “Cuối cùng mình cũng có nhà mới rồi!” Thế rồi Nhím con đẩy quả bí đỏ đến dưới một gốc cây...

Chuyện gấu ăn trăng

Ngày xưa, chú Cuội chưa lên sống trên cung trăng mà vẫn ở mặt đất này cùng với chúng ta. Cuội cũng có bố, có mẹ như chúng ta vậy.

Lạc đàn

Nhà Kiến ở ven sông, sâu trong một hẻm đá. Thật đông và vui. Hằng ngày, theo chân Kiến chúa, cả đàn rời tổ từ sáng sớm để tìm kiếm thức ăn. Dòng họ Kiến sống vốn có kỉ luật nên đi đâu cũng thành đàn thành lũ.

Con yêu mẹ

Người mẹ mệt mỏi trở về từ cửa hàng sau một ngày làm việc dài đăng đẵng, kéo lê túi hàng trên sàn bếp. Đang chờ bà là đứa con trai tên David lên 8 tuổi, đang lo lắng kể lại những gì mà em nó đã làm ở nhà...

Cái cò đi đón cơn mưa

Một hôm, Cò Trắng đang tha thẩn bên bãi sống thì gặp đàn Kiến cỏ. Ơ kìa, sao Kiến lại kéo nhau chạy ngược vào trong đê thế? Cò ngơ ngác hỏi một chị Kiến đang khênh bọc trứng.

Vịt con xấu xí

Trong một khu rừng nọ, có một cô Vịt mẹ đang ấp trứng, hồi hộp mong chờ đến ngày được gặp mặt những đứa con yêu quý của mình. Cuối cùng ngày đó cũng đến, từng quả trứng nở ra, những chú vịt con xinh xắn và đáng yêu lần lượt nhảy ra ngoài...

Đường Dần bái sư học nghề

Đường Dần, tự Bá Hổ, từ nhỏ đã tỏ ra thông minh lanh lợi, tài học hơn người. Đường Dần đã từng bái ông tổ trường phái hội họa Ngô Môn là Thẩm Châu làm thầy, một năm sau, cậu bé Đường Dần đã thể hiện được tài năng hội họa xuất chúng...