Đôi bạn

Làng Mèo Tà Pình và làng Mán Động Hía thù nhau từ đời này qua đời khác chỉ vì cái chuyện giữa nhà thống lí Mèo và nhà vua Mán. Ngày ấy, con ngựa mà thống lí Mèo quý như vàng được thả ra ăn cỏ đã đi qua gốc cây bứa làm ranh giới giữa hai làng, đạp bừa, nhai nát nương dưa của vua Mán ở Động Hía, đúng vào lúc mẹ vua Mán đi thăm nương. Mẹ vua Mán tức giận, rút dao rừng, chém liền hai nhát vào đầu gối chân sau ngựa. Con ngựa co một chân lọc xọc chạy về, máu chảy ròng ròng. Con trai thống lí thấy ngựa bị chém què, liền lấy nỏ và tên thuốc độc lần theo vết máu ngựa mà tìm. Bấy giờ mẹ vua Mán chém ngựa xong đã quay về, chẳng may một chị con gái Mán đi hái chè trong rừng vừa tới nơi. Con trai thống lí bật nỏ, bắn trúng ngực chị. Chị lảo đảo chạy về làng, ngã gục, tay vẫn nắm chặt mũi tên của người Mèo. Từ đấy hai làng thù nhau. Cây bứa lâu đời vẫn chưa đổ, giờ nó già cỗi, cao chót vót.

Cho tới năm 1948, giặc Pháp chiếm dưới chân núi, bắn súng cối lên nương người Mán, nương người Mèo. Nương dưa của người Mán bị đạn phá tung lên, hỏng cả. Nương ngô của người Mèo đẹp như những cánh đồng hoa cũng bị bắn nát. Cả hai làng Tà Pình và Động Hía đều ghét thằng Pháp.

Mấy lần liền, cán bộ Cụ Hồ lên dạy người Mán đánh giặc giữ làng, tăng gia sản xuất. Thiếu niên Mán tổ chức thành một đội liên lạc. Cán bộ biết chuyện thù hằn giữa Tà Pình và Động Hía, đã khuyên người Mán nên đoàn kết với người Mèo. Người Mán mới đầu không nghe, sau dần dần cán bộ nói : “Cụ Hồ bảo Kinh, Thổ, Thái, Mán, Mèo, Mường là anh em một nhà. Chuyện thù hằn kia là không tốt. Đáng lẽ là việc của hai nhà thống lí Mèo và vua Mán, sao lại là việc của hai dân làng ?” Ai cũng khen cán bộ nói phải. Làng Mán đã muốn làm lành với làng Mèo nhưng họ nhà vua Mán không bằng lòng. Sau đó, cán bộ từ làng Mán sang làng Mèo cũng làm như vậy nhưng thống lí Mèo lắc đầu quầy quậy.

Buổi sáng hôm ấy, mặt trời lên đỏ ửng trên các ngọn núi trước mặt. Vừ A Sình tỉnh dậy. Cậu vừa mở hai mắt ra đã nghe thấy tiếng xay ngô ù ù. Cậu nhảy tót ra ngoài cửa, lấy tay hứng nước đắp lên mặt.

Bỗng nhiên đàn chim từ mái nhà bay vù vù về phía Động Hía, vừa bay vừa hót “chà chích, chà chích”. Sình nói một mình : “Sao chim không ở Tà Pình mà lại bay về Động Hía ? Bắt được một con thì thích quá.”

Cậu nâng vạt áo lên lau mặt. Nghĩ một lát, cậu vò chỏm tóc, rồi chạy thụt vào trong nhà.

Mẹ cậu đang xay ngô. Thấy con xách cái lồng bẫy chim từ trên vách xuống, bà hét lên cho to hơn tiếng cối xay:

– Mày bắt chim, Tây nó lên, mày chạy sao kịp ?

– Con chạy kịp chứ. Nó đến làng Mán Động Hía trước chứ.

– Mày sang quá đất Tà Pình, người Động Hía nó chém cho đấy.

Sình chưa nghe hết lời mẹ đã xách cái lồng ton ton chạy về phía có đàn chim bay. Miệng cậu chúm lại huýt sáo theo tiếng chim. Con chim mồi trong lồng cành cạch nhảy hót theo. Đi được một quãng thì vắng tanh. Con chim hú hò nào bỗng dưng kêu bạn giữa ban ngày làm cho Sình bắt đầu sợ. Tiếng chim trong lồng lại hót lên “chà chích, chà chích”. Tiếng chim trong vắt như khêu gợi làm cho cậu chúm mồm huýt theo. Thế là Sình lại đi.

Cây búa ngăn cách hai làng Tà Pình và Động Hía đã sờ sờ trước mặt. Cậu bé dừng ngay lại, nhìn quanh. Cậu buộc lồng chim lên một cành cây, mở cửa ngăn bẫy, rồi núp vào một lùm cây dại, mồm huýt sáo theo tiếng chim. Con chim mồi hót theo. Mấy con chim nghe tiếng hót, từ trên cành cao nhảy dần xuống cành thấp. Trống ngực Sình đập thình thình. Nhưng lũ chim chẳng vào lồng cho. Chúng cứ nhảy loanh quanh.

Bỗng dưng “cách” một cái. Không phải lũ chim dại đột đã mắc cạm của Sình mà chính con mồi đã nhoi ra từ lúc nào. Sợi dây buộc chân bị vướng cành nên nó chỉ nhảy chứ không bay được.

Cậu bé người Mèo hoảng hốt, từ trong bụi cây nhảy xổ ra vừa đuổi vừa vồ. Con chim thoắt bỗng bay sang bên kia cây bứa. Thế là đất Động Hía rồi. Sình bỗng dưng thừ người ra, không dám bước bạo sang. Con chim bay loạng choạng rồi nằm nép mình trong một bụi cây.

Đột nhiên đám chè của người Mán động đậy. Một chú bé Mán nhảy ra. Chú cũng nhỏ như Sình, đầu quấn cái khăn tày vố to hơn người. Chú đuổi bắt con chim. Con chim thấy người đuổi, lại loạng choạng bay.

Sình lo quá. Thằng bé kia nó bắt mất con chim thôi. Sình phùng mồm. Hai bàn tay nắm chặt lại. Hai chân giậm bành bạch. Sình dậm doạ cậu bé Mán :

– Lấy con chim của tao à ? Tao mà sang, tao chém chết.

Cậu bé Mán đã bắt được con chim. Cậu cầm bằng hai bàn tay úp vào nhau gượng nhẹ và quay lại. Đi khụng khiêng tới gần cây bứa, cậu nói dõng dạc :

– Tao không sợ mày chém. Tao có dao, mày không có dao.

Sình run bắn người lên. Mình không có dao thật. Mà con dao của nó thè lè quá đầu gối kia. Sình quay đầu toan chạy nhưng cậu bé Mán đã nhảy quá sang địa phận Tà Pình.

Hình như đã quá sợ, Sình chống tay vào háng, mắt lừ lừ. Con mắt người Mèo dài như chiếc lá răm. Hai con mắt của người Mán tròn xoe, đỏ lừ nhìn lại. Sình giữ thế thủ. Cậu bé Mán lừ lừ cặp mắt:

– Mày định đánh nhau à ? Mày không có dao, tao có dao. Nhưng tao không đánh mày đâu.

– Mày không đánh tao nhưng mày lấy con chim của tao, tao phải đánh mày chứ.

– Tao không lấy con chim của mày. Cán bộ Cụ Hồ bảo phải đoàn kết nên tao không lấy của mày.

– Cán bộ Cụ Hồ là vua Mán à ?

– Không phải, mày chưa biết. Mày cầm con chim này mà về đi.

À, sao thằng bé Mán lại tốt thế nhỉ ? Cha mẹ ta bảo người Mán ác lắm kia mà. Sình nghĩ vậy, đưa tay nhận lại con chim, tay vẫn còn run.

– Mày về xay ngô cho mẹ để mẹ lên nương bẻ hết ngô về đi. Để thằng Tây lên, nó không cướp được.

– Tên mày là gì ?

– Tao là Triệu Đại Mã, con Triệu Kim Đan.

– Tao là Vừ A Sình, con Vừ A Dếnh. Mày có chơi với tao không ?

– Chơi chứ! Cán bộ Cụ Hồ bảo người Mèo, người Mán là anh em mà.

Chiếc đồng hồ

Năm 1954, các cán bộ đang dự hội nghị tổng kết ở Bắc Giang thì có lệnh Trung ương rút bớt một số người đi học lớp tiếp quản Thủ đô. Ai nấy đều háo hức muốn đi. Nhất là những người quê Hà Nội.

Chuyện gấu ăn trăng

Ngày xưa, chú Cuội chưa lên sống trên cung trăng mà vẫn ở mặt đất này cùng với chúng ta. Cuội cũng có bố, có mẹ như chúng ta vậy.

Nhằm thẳng quân thù mà bắn!

Tháng 8 năm 1964, giặc Mỹ bắt đầu cho máy bay bắn phá gây tội ác ở miền Bắc. Thiếu úy Nguyễn Viết Xuân cùng đồng đội hành quân lên miền tây Quảng Bình bảo vệ vùng trời của Tổ quốc.

Alexander Graham Bell – người phát minh ra điện thoại

Ngày 7- 8 – 1922, tất cả các máy điện thoại trên toàn nước Mĩ câm lặng, cả nước cử hành quốc tang tiễn biệt Alexander Graham Bell – người phát minh điện thoại vừa qua đời 5 ngày trước đó.

Gấu con bị sâu răng

Trong rừng có một chú Gấu con rất thích của ngọt. Mật ong, bánh gatô, các loại kẹo, chú ăn bao nhiêu cũng chẳng chán. Gấu con nhai kẹo suốt ngày. Nhiều hôm đi ngủ rồi mồm vẫn còn ngậm kẹo...

Đàn kiến con ngoan quá

Bà kiến đã già, một mình ở trong cái tổ nhỏ dưới mô đất, vừa chật hẹp, vừa ẩm ướt. Mấy hôm nay, bà đau ốm cứ rên hừ hừ...

Chiếc xe đẩy của Chuột Đồng

Mùa thu đã tới, lúa mạch đã thơm, lúa mì đã vàng, củ cải đã đỏ. Chuột đồng đẩy chiếc xe cút kít mà bố vừa mới làm cho nó đến ruộng. “Hò dô ta, hò dô ta!” một đàn Kiến nhỏ đang khiêng một bông lúa mạch bước đi lặc lè trên ruộng...

Chiếc dao nóng nảy

Mi-chi-a cầm dao gọt một chiếc gậy, nhưng gọt một chốc, cậu quẳng gậy xuống đất. Chiếc gậy cong queo, sần sùi, trông thật xấu.

Giấc mơ của cậu bé Phun-tơn

Elô-be Phun-tơn sinh ngày 14-11-1765, tại Mĩ. Cha mất sớm, nhà nghèo, lên 9 tuổi, Phun-tơn mới được đến trường. Vì giàu trí tưởng tượng, biết kể chuyện lại biết vẽ, cậu bé được bè bạn rất quý mến.