Nhằm thẳng quân thù mà bắn!

Tháng 8 năm 1964, giặc Mỹ bắt đầu cho máy bay bắn phá gây tội ác ở miền Bắc.

Thiếu úy Nguyễn Viết Xuân cùng đồng đội hành quân lên miền tây Quảng Bình bảo vệ vùng trời của Tổ quốc.

Buổi sáng ngày 18 tháng 11 năm 1964 đã đi vào lịch sử đối với đại đội 3 pháo cao xạ [1]. Sau hai đợt chiến đấu với máy bay địch, đại đội đã bắn tan xác một phản lực, các chiến sĩ nhanh chóng sửa công sự, sẵn sàng trên mâm pháo. Mọi khẩu pháo đều vươn nòng như nghe ngóng, đầy cảnh giác.

Một đàn máy bay địch lại ập tới, lần này chúng đến rất đông ở nhiều tầng, nhiều hướng hòng tiêu diệt trận địa. Bầu trời rung lên, như xé ra vì tiếng gầm rít của chúng. Bọn máy bay cánh quạt bay lên cao, còn bọn phản lực chia làm nhiều tốp, tốp thấp, tốp bổ nhào.

Lá cờ đỏ trong tay người chỉ huy vươn cao trong nắng, bay phần phật. Có tiếng hô:

– Chú ý! Địch bổ nhào, bắn!

Pháo ta gầm vang, cả trận địa nổ súng, khói đạn vây chặt lấy máy bay địch. Kẻ thù dọi bom tới tấp xuống trận địa, đạn rốc két [2] phóng xuống như mua, đất đá bắn tung. Một quả nổ gần công sự [3], chiến sĩ trong khẩu đội bị hơi bom hất văng người ra khỏi mâm pháo. Một khẩu pháo bị trúng đạn, lửa cháy rừng rực, khói đen cuồn cuộn bốc cao. Tiếng súng của của ta thưa đi.

Nhằm thẳng quân thù bắn

Vào giờ phút ác liệt đó, bỗng vang lên lời kêu gọi của chính trị viên Nguyễn Viết Xuân:

– Các đồng chí! Hãy nhằm thẳng quân thù mà bắn!

Tiếng anh truyền đi, cả trận địa như được tiếp thêm sức mạnh. Một số pháo thủ bị thương đã vùng dậy, đứng vững ở vị trí chiến đấu. Trong tiếng gầm rú, bắn phá của máy bay, cả trận địa vẫn nghe thấy tiếng báo cự li rành rọt, rõ ràng của các chiến sĩ quan trắc [4]. Các pháo thủ đã bằng những động tác kỹ thuật nhanh gọn, chính xác, bình tĩnh chờ cho chúng lao xuống thật thấp, pháo ta mới nổ giòn giã. Một phản lực bị trúng đạn, chòng chành, rồi rơi về phía nam.

Trong màn khói lửa, bom đạn nổ liên hồi, Nguyễn Viết Xuân lao vào dập tắt đám cháy ở khẩu đội bị trúng đạn, cùng các chiến sĩ sửa sang công sự, săn sóc pháo thủ bị thương. Khi anh quay về hầm chỉ huy, chưa kịp bước chân vào hầm, anh đã bị đạn địch bắn nát đùi bên phải. Anh nén đau, không kêu một tiếng, mặt anh tái nhợt, gượng đứng thẳng nhưng lại lảo đảo ngã xuống. Các chiến sĩ chạy đến bên người chính trị viên, định khiêng anh vào bệnh viện, nhưng anh đã hy sinh.

Lúc ấy các khẩu pháo vẫn ầm ầm nhả đạn, phóng lên những luồng đạn rất căng như những đường lê đâm thẳng vào kẻ thù. Một chiếc phản lục nữa đã phải đền tội ác, phun khói đen thành vệt dài, bốc lửa, lao xuống núi, nôt tan xác. Các chiếc khác trút bừa bom đạn tháo chạy.

Anh Nguyễn Viết Xuân không còn nữa, nhưng lời kêu gọi của anh đã được Bộ tư lệnh phòng không phổ biến đến từng chiến sĩ bắn máy bay, trở thành khẩu lệnh tấn công: “Nhằm thẳng quân thù mà bắn!“. Khẩu lệnh đó và những tấm gương chiến đấu dũng cảm của đại đội 3 pháo cao xạ của anh hùng liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân đã làm rung động hàng vạn trái tim, cổ vũ tinh thần chiến đấu các chiến sĩ phòng không, góp phần to lớn trong sự nghiệp đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của giặc Mỹ.

 

Nguyễn Viết Xuân sinh năm 1934, người làng Ngũ Kiên, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, năm lên 7 tuổi anh đã phải đi giúp việc trong thời gia dài suốt 10 năm. Khi vừa tròn 18 tuổi anh đã đi từ vùng tạm chiếm ra vùng tự do, rồi xin đi bộ đội. Nhập ngũ tháng 11/1952, lúc đầu anh làm chiến sỹ trinh sát, rồi tiểu đội trưởng trinh sát, trung đội trưởng pháo cao xạ, sau làm chính trị viên đại đội. Bất kỳ ở cương vị nào anh cũng luôn nêu cao tinh thần quyết tâm chống giặc xâm lược, bảo vệ tổ quốc, xung phong đi đầu, cùng đồng đội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Anh hùng Nguyễn Viết Xuân được biết đến nhiều qua khẩu hiệu "Nhằm thẳng quân thù! Bắn!".


[1] Pháo cao xạ: Loại súng lớn có nòng dài, dùng để bắn máy bay.

[2] Rốc két: một loại tên lửa nỏ.

[3] Công sự: Ụ đất được đắp cao, quây quanh khẩu pháo.

[4] Quan trắc: theo dõi phương, độ cao máy bay, báo cho người bắn biết.

Ra đi từ bến Nhà Rồng

Mười lăm tuổi, cậu thiếu niên Nguyễn Tất Thành đã sớm biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của nhân dân. Lúc bấy giờ, anh đã có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào.

Ve sầu đi học

Trong khu vườn nọ có một gia đình nhà ve sầu. Một chú ve sầu con đang tuổi ham chơi. Suốt ngày chú là cà, lêu lổng lang thang khắp vườn. Chú làm quen được với một bạn dế mèn con. Cả hai quậy phá khắp nơi...

Tôi lại có gia đình

Câu chuyện kể về cuộc đời lưu lạc của chú bé Rê-mi. Bị bắt cóc và vứt ra lề đường từ lúc mới sinh, Rê-mi được một gia đình nghèo nuôi, rồi được chủ một gánh xiếc rong là cụ Vi-ta-li dìu dắt nên người.

Hai bàn tay

 Năm 1911, năm ấy Bác còn trẻ lắm mới khoảng 21 tuổi. Một hôm anh Ba - tên của Bác hồi ấy, cùng một người bạn đi dạo khắp thành phố Sài Gòn, rồi bỗng đột nhiên anh Ba hỏi người bạn cùng đi: Anh Lê, anh có yêu nước không ?

Cuộc họp của chữ viết

Vừa tan học, các chữ cái và dấu câu đã ngồi lại họp. Bác Chữ A dõng dạc mở đầu.

Ăn "mầm đá"

Tương truyền vào thời vua Lê - chúa Trịnh có ông Trạng Quỳnh là người rất thông minh. Trạng thường dùng lối nói hài hước hoặc những cách độc đáo để châm biếm thói xấu của vua chúa, quan lại và bênh vực dân lành.

Chú dế sau lò sưởi

Buổi tối ấy, nhà Mô-da thật yên tĩnh. Cậu bé thiu thiu ngủ trên ghế bành. Bỗng dưng!… Hình như có một cái gì đó đã xảy ra?

Dúi con nói sai rồi

Mùa xuân đã đến với khu rừng nhỏ, các loài động vật trong rừng đều đang bận rộn trang hoàng lại nhà cửa. Dúi con cũng tất tả đi mua gỗ lát sàn nhà, mua gạch men để làm đẹp cho ngôi nhà của mình...

Người mẹ và Thần Chết

Bà mẹ chạy ra ngoài, hớt hải gọi con. Suốt mấy đêm ròng thức trông con ốm, bà vừa thiếp đi một lúc, Thần Chết đã bắt nó đi...